Thời sự Thần học – Số 1, tháng 3/2010, tr. 93-107.
_Thanh Nhơn_
Tôn giáo nào cũng quan niệm về cứu độ cho riêng tôn giáo mình, cũng như có nhiều
điểm giống và khác nhau. Sự khác biệt làm cho thêm phong phú lẫn nhau hơn là đối
kháng nhau, tuy vẫn biết hòa hợp tất cả là một điều không dễ dàng gì. Bài này cố
gắng trình bày quan niệm cứu độ của Phật giáo và Kitô giáo nhằm hướng tới việc
thu nhỏ dần khoảng cách giữa hai tôn giáo chính tại Việt Nam
1. Cứu
độ trong Phật giáo
1.1. Ý niệm về cứu độ trong Phật giáo
Phật giáo quan niệm rằng đời là bể khổ, con người không thể thoát
khỏi cảnh khổ đau. Những khổ đau, bệnh tật, chết chóc… là những quy luật hiển
nhiên mà ai cũng phải trải qua, không một ai có thể tránh khỏi.
Có
nhiều cái khổ xảy đến với con người. Có những cái khổ mà ai ai cũng phải trải
qua như: sinh, lão, bệnh, tử. Có những cái khổ do chính con người tạo ra như:
chiến tranh, cướp bóc… Tất cả những nỗi khổ này làm cho con người sống trong lo
âu, mất hạnh phúc. Hơn nữa, con người còn phải trải qua luật nghiệp báo, luật
luân hồi. Bất cứ một hành động nào của chúng ta dù to hay nhỏ, dù tốt hay xấu
thì đều có báo ứng là được thưởng hay bị phạt. Vì luật nghiệp báo chi phối nên
hiện giờ ta phải trả giá cho những việc đã làm trong quá khứ, và tương lai sẽ
phải trả giá cho những việc ta đang làm bây giờ. Vì thế, tất cả những ai chưa
được giải thoát khỏi dục vọng, lòng ham muốn thì vẫn bị luật nghiệp báo điều
khiển. Bởi vì, họ vẫn nghĩ, làm và nói theo những xúc động của tình cảm.
Ngoài ra, con người còn bị chi phối bởi quy luật luân hồi. Theo
triết lý Ấn Độ, con người phiêu bạt vô định như cánh bèo trôi trên dòng nước
không phải do tự động, nhưng vì bị lôi cuốn, bị hấp dẫn bởi những đối tượng của
giác quan, bởi dục vọng tham lam những khoái lạc do sự vật bên ngoài gây nên. Do
đó, sự chết nơi con người không phải là hết mà là chấm dứt đời người, là một sự
chuyển đổi. Sự sống đời này (hiện nghiệp) vừa là kết quả của đời sống quá khứ
(túc nghiệp), vừa là nguyên nhân cho kiếp sau. Đời sau này vừa là kết quả của
đời hiện tại, vừa là nguyên nhân cho đời kế tiếp; tất cả cứ như vậy chạy quanh
không ngừng. Cũng theo giáo lý này, con người có thể tái sinh ở rất nhiều kiếp
khác nhau: kiếp thần thánh, kiếp người khác, kiếp quỷ hay kiếp súc vật. Vì thế,
đời sống của con người mai sau hoàn toàn lệ thuộc vào đời sống ở kiếp này. Kiếp
này ta làm nhiều việc thiện thì kiếp sau sẽ được đầu thai ở kiếp tốt như thần
thánh hay con người còn ngược lại, con người làm nhiều điều xấu sẽ bị đầu thai ở
kiếp quỷ hoặc súc vật. Nếu ai ở đời này tu tập đạt đến bậc giác ngộ thì kiếp sau
sẽ được đạt đến niết bàn và trở thành Phật.
Vì ý thức rằng đời là bể
khổ và con người luôn phải trầm luân trong bể nên con người phải tìm cách để
thoát ra khỏi cảnh khổ ải đó. Theo Phật giáo, sự giải thoát là chính bản thân
mình tự giải thoát cho mình, nhờ vào sự tập luyện để đạt tới Niết Bàn, chứ không
cậy dựa vào bất kỳ một ai hay một thể lực thần linh nào khác. Tuy nhiên, phần
đông phật tử vẫn tin vào vai trò cứu độ của Đức Phật. Họ vẫn nghĩ rằng. Đức Phật
luôn hiện diện như một vị thần để giúp đỡ, ban phát cho họ những ơn lành và ban
cho họ được hạnh phúc. Vì thế, họ đến chùa với tâm tình vái lạy, cầu xin Đức
Phật ban cho họ những điều họ mong muốn.
Trong niềm tin của người
Phật tử vẫn tin có giải thoát (cứu độ), nhưng để được giải thoát thì chính con
người phải nỗ lực bằng khả năng và sức lực của mình. Do đó, khái niệm cứu độ của
Phật giáo là con người tự giải thoát chính mình, con người quy hướng về mình chứ
không hướng đến hay cần một sự trợ giúp của đấng bậc thần linh hay một vị cứu
tinh nào khác.
Như vậy, Phật giáo là Đạo đi tìm sự giải thoát cho
con người. Đức Phật đã đưa con người tự lên đường để giải thoát chính mình. Con
người tự phá đổ tất cả mọi hàng rào, mọi vướng bận ngăn cản con người đi đến tự
do. Con người lên đường tìm sự tự do và giải thoát cũng chính là đi tìm chân lý.
Đạo Phật là đưa chúng sanh đến cuộc sống an lạc giải thoát, đó cũng là nhu cầu
tất yếu và là khát vọng thâm sâu của nhân loại ở mọi nơi và mọi thời.
1.2. Con đường dẫn tới cứu độ
Mục đích các Pháp môn tu
tập của Phật giáo là giải thoát, tức là thoát khổ, là được hạnh phúc. Muốn được
giải thoát, con người phải diệt trừ những nguyên nhân gây ra đau khổ, tức là
những lối sống xấu xa độc ác, nhất là sự dốt nát, và tích cực làm những điều
tốt, ích lợi cho mình và tha nhân, trở nên người tốt, hoàn hảo.
Đức
Phật đã rao giảng về những chân lý dẫn con người đến con đường giải thoát để đạt
tới Niết Bàn. “Tứ Diệu Đế” là bốn chân lý huyền diệu mà Phật Thích Ca cảm nghiệm
được khi giác ngộ. Đây là những chân lý nền tảng, là tinh hoa, là đặc điểm chính
của Phật giáo. Trong Tứ Diệu Đế, Đạo Đế được coi là con đường cứu độ. Đạo đế là
con đường “Bát chánh” quy về ba mục chính: Giới, Định, Huệ.
Giới:
giới là tự giác sống có kỷ luật. Đúng hơn, giới là việc thực hiện một lối sống
lành mạnh, giản dị trong sáng, về thân, về khẩu, về ý. Như vậy, giới có thể coi
là điều kiện để có thể tự quán sát tâm. Chắc chắn chúng ta không thể quán sát tự
tâm khi sống kiểu phóng túng hỗn loạn, nói năng đủ thứ ồn ào, và để cho tâm ý
hướng về trăm chuyện lung tung. Tuy nhiên, giới chỉ là điều kiện chứ không phải
bản chất của việc quán sát, tỉnh thức.
Huệ: nhìn nhận, hiểu biết vạn
sự đúng với thực tại của chúng, để hiểu biết được thì phải thông hiểu giáo lý
của Đức Phật khi đã biết thực tính của vạn sự, thì tư tưởng ta không dính bén gì
đến những cái vô thường.
Định: trước tiên không cho nội tâm bị vẩn
đục bởi những tư tưởng xấu xa, rồi tu luyện tâm thần bằng mọi phương pháp, qua
các giai đoạn:
- Sơ thiền: xua đuổi mọi đam mê, ước muốn xấu
- Nhị thiền: tâm tư không còn hành động ngoài ý muốn, và được tập
trung lại, tuy nhiên cảm giác sướng vui hạnh phúc vẫn còn.
- Tam
thiền: Cảm giác vui mất đi nhưng hạnh phúc vẫn còn
- Tứ thiền: tất
cả mọi cảm giác đều biến hết, người ta không còn ý thức gì về vui buồn nữa.
Tất cả những phương pháp trên đều có mục đích khử trừ, diệt tận mọi
dục vọng đam mê, để đạt tới trạng thái thuần tịnh. Như vậy, Bát Chánh Đạo có thể
được xem như là một nền đạo đức học thực nghiệm của Phật giáo, dùng để huấn
luyện đức tính của con người trở nên cao đẹp hơn, đồng thời cũng là một con
đường tôn giáo đưa con người đến “Chánh Giác, tức Phật Cảnh”.
2. Cứu
độ trong Kitô giáo
2.1. Ý niệm về cứu độ
Như chúng ta đã
thấy, trọng tâm của đạo Thiên Chúa là nhằm biểu lộ tình thương vô hạn của Đấng
Tạo Hóa, đã tạo dựng và muốn cứu độ con người tội lỗi, đau khổ. Vì thế, Kitô
giáo dùng nhiều danh từ như: cứu độ, cứu chuộc, giải thoát để diễn tả về ý niệm
cứu độ.
Chữ cứu độ được dịch từ chữ Salvation, có nghĩa là người
chữa bệnh hay là người cứu giúp. Như thế, cứu độ bao hàm một tình trạng suy đồi
và nay được sửa lại nguyên vẹn như xưa, nhờ sự giúp đỡ, cứu vớt của một vị cứu
tinh đã ra tay cứu nhân độ thế. Theo quan niệm cứu độ này thì con người không
thể tự cứu lấy mình được, mà phải nhờ đến một Đấng Cứu Thế giúp đỡ.
Một danh từ khác được sử dụng là “cứu chuộc”. Danh từ cứu chuộc bao
hàm ý nghĩa lỗi lầm như tội nguyên tổ và tội cá nhân, loài người không thể tự
chuộc lại lỗi lầm lớn lao đó, vì đã dám từ chối lòng yêu thương vô hạn của Chúa.
Vì thế, chỉ có Thiên Chúa tự ý ra tay cứu chuộc bằng Thập giá của Chúa Giêsu
Kitô mà con người được giải thoát. Lòng thương xót vô hạn của Chúa luôn muốn cứu
độ nhân loại đã được thể hiện trong lịch sử, nhờ biến cố giáng thế làm người và
chịu nạn chịu chết của Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô.
Tiếp đến là
danh từ “giải thoát hay giải phóng”, danh từ này được dịch từ chữ Latinh:
liberare, liber có nghĩa là làm cho tự do. Theo nguyên tự, chữ này chỉ việc cứu
vớt những người nô lệ và tù nhân khỏi cảnh giam cầm để hưởng tự do. Theo nghĩa
rộng, giải thoát là một tình trạng bị áp bức đè nén, con người được vùng lên bẻ
gãy mọi xiềng xích trói buộc, cản trở để tiến tới tự do phát triển. Như vậy,
theo nghĩa tôn giáo, giải thoát chính là cứu vớt nhân loại khỏi ách nô lệ tội
lỗi, ma quỷ, hỏa ngục… để giúp tâm trí con người tìm ra ánh sáng chân lý, và
phát triển nhân phẩm đến bậc thiện toàn.
Tóm lại, tất cả những danh
từ trên đều diễn tả rằng: con người chúng ta không thể tự mình giải thoát được
khổ nơi mình mà phải cậy dựa vào lòng thương xót của Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới
giải thoát con người khỏi cảnh nô lệ cho tội lỗi. Con người chỉ khi cộng tác và
đón nhận hồng ân của Chúa thì được cứu độ.
2.2. Sự cần thiết của
Công cuộc Chuộc tội
Theo Đạo Thiên Chúa, tội là một hành vi, một
quyết định tự do của con người chống lại lề luật của Chúa, từ chối không chấp
nhận “Thiên Ân” do tình thương của Chúa. Đây là một trọng tội vì là một hành
động quyết liệt đối với Thánh ý Chúa. Sau khi con người phạm tội, Thiên Chúa vẫn
tự ý ban hồng ân siêu nhiên để siêu hóa và tha thứ cho nhân loại. Thiên Chúa
muốn ban hồng ân cho mọi người, mọi nơi, mọi lúc, những ân sủng đó phải lệ thuộc
vào biến cố lịch sử là Chúa Giêsu Nhập Thể và vào Hội Thánh như “Nhiệm Thể Chúa
Kitô”. Do đó, chỉ nhờ đời sống và sự chết của Chúa Giêsu Kitô mà nhân loại được
chuộc tội, và hy vọng được hưởng hạnh phúc trường sinh. Vì thế, thập giá Chúa
Kitô trước sau luôn là căn nguyên của việc chuộc tội cho thiên hạ.
Tuy nhiên, con người muốn được cứu độ thì phải kết hợp với hồng ân
của Chúa. Thật vậy, hồng ân của Chúa ban cho con người cách nhưng không. Tội lỗi
con người thì nặng vô cùng, con người không thể tự cứu lấy mình được vì bản tính
hữu hạn của con người, vì tính chất và sự cần thiết của việc cứu độ thì cao sâu
vô cùng. Do đó, con người phải hợp tác với hồng ân của Chúa. Tuy nhiên, sự hợp
tác này là cần thiết nhưng không phải là yếu tính của việc chuộc tội. Tức là, ta
phải làm sao để có thể đền tội ta một cách cân xứng thì ta sẽ được Chúa tha tội
và ban cho Phúc Trường Sinh.
Vì thế, ơn cứu độ của Thiên Chúa là rất
cần thiết. Nếu không có ơn cứu độ của Chúa thì con người luôn phải sống trong
tình trạng tội lỗi. Bởi vì, con người đã đánh mất sự tự do nơi mình, mất sự
tương quan thân tình với Thiên Chúa, vì đã phạm tội kiêu ngạo không phục tùng.
Thế nên, con người không thể tự cứu lấy mình khỏi tình trạng tội lỗi của mình.
Do đó, con người phải cậy dựa vào công nghiệp cứu chuộc nơi Thiên Chúa để được
giải thoát.
2.3. Đức Giêsu Kitô hoàn tất công trình cứu độ
Như trên đã trình bày, ơn cứu độ hoàn toàn xuất phát từ Thiên Chúa
và do ý định của Thiên Chúa. Chính vì thế Đức Giêsu Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa
đã xuống thế làm người, sống thân phận con người như bao con người bình thường
khác. Người đã hoàn toàn vâng phục Thánh ý của Thiên Chúa Cha: Ngài đã vâng phục
đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên Thập giá. Chính sự chết và phục sinh
của Đức Giêsu là nguồn ơn cứu độ cho nhân loại.