Hiển thị các bài đăng có nhãn Đời sống thánh hiến. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đời sống thánh hiến. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2024

THỜI SỰ THẦN HỌC – SỐ 103, THÁNG 02/2024

CHỦ ĐỀ : ĐÀO TẠO THƯỜNG XUYÊN LINH MỤC VÀ TU SĨ

LỜI GIỚI THIỆU


Số báo này được dành cho vấn đề “đào tạo thường xuyên” (formation permanente) của các linh mục và tu sĩ. Trong đời sống Giáo hội, xem ra thuật ngữ này không được thông dụng cho bằng “thường huấn”, vốn được áp dụng cho các khóa huấn luyện được tổ chức hằng năm cho các linh mục và tu sĩ. Thực ra, trong vấn đề này, còn nhiều khái niệm chưa được rõ rệt, xét về từ ngữ cũng như nội dung. Trước hết, chúng tôi xin đưa ra vài nhận xét về từ ngữ: thứ nhất là “đào tạo”, thứ hai là “đào tạo thường xuyên”. Sau đó, chúng ta sẽ đi vào lãnh vực đào tạo của các linh mục và tu sĩ.

Thứ Sáu, 7 tháng 10, 2022

QUYỀN LỰC VÀ VINH QUANG TRONG ĐỜI TẬN HIẾN

Thời sự Thần học – Số 44, Tháng 6/2006, tr. 109-144.

_Giuse Nguyễn Quang Huy, O.P. 🙋


Có vẻ ngộ nghĩnh khi nói về “quyền lực - vinh quang trong đời tận hiến”. Những cụm từ đối lập nhau khiến ta dễ có cảm giác đây là một câu nói giễu cợt, hoặc đơn thuần chỉ là một cách gây sự chú ý. 

Thực tế trong cuộc sống, vấn đề trên không hề làm ta bỡ ngỡ, bởi nó vẫn đang diễn ra một cách quá bình thường. Nhưng chính kiểu bình thường đến mức tầm thường ấy đã khiến ta phải giật mình. Chắc hẳn không ít trong chúng ta có cảm giác mình bị lừa trước những thực trạng bình thường nhưng lại rất bất thường ấy. Bởi trong khi chúng ta tin rằng “quyền lực - vinh quang” và “tận hiến”không thể là những nhóm khái niệm gần gũi nhau, chúng ta lại phải chứng kiến những điều nghịch với niềm tin ấy.

Thứ Hai, 11 tháng 7, 2022

NGAI CỦA THIÊN CHÚA

Thời sự Thần học – Số 3, tháng 8/2009, tr. 166-182

_Fr. Timothy Radcliffe, O.P._

Bài thuyết trình tại Đại hội các Viện phụ, dịp lễ thánh Alselmô, 06.9.2000. Mân Côi chuyển dịch. 
Được mời đến nói chuyện tại Đại hội các Viện phụ này, đối với tôi, quả là một vinh hạnh to lớn. Tôi xin nói đôi chút về vai trò của các đan viện trong Thiên niên kỷ mới này. Tôi cảm thấy không xứng hợp lắm để nói về đề tài này và có lúc đã nhủ mình là giá đừng nhận lời mời thì hay hơn. Nhưng tôi xin cố gắng làm để tỏ lòng tôn vinh và tri ân thánh Biển Đức và những người sống theo Tu luật của thánh nhân. Tôi đã được các thầy dòng Biển Đức giáo dục nhiều ít trong vòng mười năm, ở Worth, rồi ở Downside. Và tôi vẫn giữ kỷ niệm đẹp nhất trong những năm tháng ấy. Tôi nhớ nhất là tính cách nhân bản của các đan sĩ đã giúp tôi tin vào một Đấng Thiên Chúa nhân lành và thương xót, trong khi vẫn giữ được tính cách rất là ăng-lê! Về ơn gọi đi tu, có lẽ tôi mắc nợ ông cậu tôi là một thầy dòng Biển Đức. Ông cậu tên là Dom John Lane Fox, một con người rất linh hoạt và rất nhiệt thành với Chúa. Cuối cùng, tôi xin cám ơn Thiên Chúa vì một thầy dòng Biển Đức tốt lành nữa, bạn của tôi. Đó là Đức hồng y Basil Hume.

Suốt cuộc hành hương dài là chính cuộc đời của tôi, các đan viện Biển Đức đã nên như là những ốc đảo giữa sa mạc, nơi tôi có thể nghỉ ngơi bồi dưỡng trước khi lại tiếp tục con đường. Tôi đã được tĩnh tâm chịu chức phó tế tại đan viện Bec-Hellouin ở Normandie. Tôi đã được nghỉ hè ở đan viện La Pierre-qui-Vire và Einsiedeln. Tôi đã được cử hành lễ phục sinh tại đan viện Pannonhalma ở Hungari. Tôi đã thăm Subiaco, Mont-Cassin, Mont-Olivet và cả trăm đan viện khác nữa.

Trong tất cả các đan viện này, tôi đều thấy nhiều đoàn du khách tới. Tại sao họ lại tới đó làm gì? Có lẽ một số là du khách, họ đến ở đó một buổi chiều, có thể là mong được nhìn thấy một đan sĩ, tựa như người ta đi xem khỉ ở sở thú. Có thể người ta cũng mong thấy những tấm biển nhỏ: “Cấm không cho các đan sĩ ăn”. Một số khác muốn xem nhà cửa hoặc phụng vụ cử hành đẹp như thế nào. Nhiều người đến để gặp gỡ Thiên Chúa. Chúng ta đang nói đến “tục hoá”, nhưng chúng ta lại đang sống vào một thời đại mang dấu ấn sâu đậm của việc tìm gặp Thiên Chúa. Có cả một cơn khát mong điều siêu việt. Người ta hy vọng tìm được điều ấy trong các tôn giáo Đông phương, các giáo phái của New Age, cái ngoại lai và cái bí truyền. Thường có một sự hồ nghi nào đó đối với Hội Thánh và bất kỳ tôn giáo nào có tổ chức, có thể trừ ra các đan viện. Tư tưởng đang có là trong các đan viện người ta có thể thoáng thấy mầu nhiệm Thiên Chúa và khám phá ra một dấu vết nào đó của điều siêu việt.

Thật vậy, vai trò của các đan viện là đón tiếp các lữ khách qua đường. Tu luật nói rằng người xa lạ phải được tiếp đón như là tiếp đón Đức Kitô. Họ phải được chào đón với lòng trọng kính. Phải rửa chân cho họ và cho họ ăn. Điều đó vẫn luôn là kinh nghiệm của tôi. Tôi nhớ lần thăm Saint-Ottilien hồi cha Viktor Dammertz còn là viện phụ. Bấy giờ tôi là một anh sinh viên Đa Minh người Anh, nghèo, nhếch nhác, quen xài xe buýt. Ấy thế mà tôi thấy mình được đón tiếp, được rửa chân, được dọn dẹp nhờ các thầy dòng Biển Đức không chê vào đâu được. Thậm chí các thầy còn hớt tóc cho tôi nữa. Thế là lúc lên đường, tôi hầu như ngon lành hết. Nhưng tôi cũng chỉ ngon lành như thế trong một thời gian ngắn.

Tại sao người ta lại bị lôi cuốn đến các đan viện như thế nhỉ? Tôi xin chia sẻ với anh em đôi ba suy nghĩ về điểm này. Có thể anh em sẽ nói rằng các ý tưởng của tôi là hoàn toàn rồ dại và những ý tưởng ấy cho thấy rõ là một anh Đa Minh thì chẳng thể hiểu gì về đời sống Biển Đức cả. Nếu quả thật lại như thế thì xin anh em tha lỗi cho tôi! Tôi xin giải thích thế này: các đan viện của anh em bộc lộ cho thấy Thiên Chúa, không phải vì những gì anh em làm hoặc những gì anh em nói. Nhưng có thể vì đời sống đan tu có một khoảng không ở trung tâm, một chỗ trống trong đó Thiên Chúa có thể tỏ mình ra. Tôi cứ thích gợi lên cho thấy là Tu luật của thánh Biển Đức đã khéo thu xếp để trong cuộc đời của anh em có một thứ trung tâm trống rỗng, trong đó Thiên Chúa có thể sống và được nhận biết.

Vinh quang của Thiên Chúa luôn luôn biểu lộ trong một khoảng không gian trống rỗng. Khi những người Israen ra khỏi hoang địa, Thiên Chúa đồng hành với họ. Người ngự trong khoảng không gian giữa các cánh của các Kêrubim, bên trên ngai thương xót. Ngai vinh quang bấy giờ là cái trống rỗng này. Đó chỉ là một khoảng không gian bé nhỏ rộng tựa bàn tay. Thiên Chúa không cần nhiều chỗ để tỏ bày vinh quang của Người. Xa hơn đây một chút, ít nhất là hai trăm mét, trên đồi Aventino, có vương cung thánh đường Santa Sabina, trên cửa có bức hoạ thứ nhất nổi tiếng, vẽ về thánh giá. Ta thấy một cái ngai vinh quang, cũng là một khoảng trống, một sự thiếu vắng, bởi vì một người chết đang kêu lên Thiên Chúa, Đấng ra như bỏ rơi mình. Ngai vinh quang cuối cùng là một ngôi mộ trống trong đó không còn thi thể nào nữa.

Hy vọng của tôi là các đan viện Biển Đức tiếp tục là những nơi ở đó vinh quang của Thiên Chúa chiếu toả, những ngai dành cho mầu nhiệm Thiên Chúa. Và sở dĩ như thế chính là do cái anh em không phải làm và cái anh em không làm. Những năm sau này, các nhà thiên văn tìm ra những hành tinh mới trong bầu trời. Cho tới hồi rất gần đây, họ chẳng bao giờ trực tiếp thấy một hành tinh nào khác. Nhưng họ có thể chỉ ra chúng nhờ một sự rung động trong quĩ đạo của ngôi sao. Có thể cũng như thế đối với những người sống theo Tu luật của thánh Biển Đức, anh em chỉ là những hành tinh bày tỏ cho thấy ngôi sao không thể thấy là trung tâm của đan viện. Quĩ đạo có thể đo được cuộc đời anh em chỉ hướng về mầu nhiệm mà chúng ta không thể thấy trực tiếp được. “Quả thật, Ngài là một vị Thiên Chúa ẩn mình, Thiên Chúa của Israen” (Is 45,13).

Như thế, tôi xin nói rằng trung tâm không thể nhìn thấy của cuộc đời anh em được biểu lộ trong cách anh em sống. Vinh quang của Thiên Chúa được biểu lộ trong một sự trống rỗng, một khoảng không trống rỗng trong cuộc đời của anh em. Tôi sẽ nói đến ba khía cạnh của đời sống đan viện mở ra khoảng trống này và cống hiến một không gian cho Thiên Chúa: trước tiên, cuộc đời anh em không có một lý do nào riêng biệt cả. Thứ hai, cũng qua sự kiện đó, cuộc đời anh em chẳng đưa tới đâu hết. Và sau cùng, cuộc đời anh em là những cuộc đời của sự khiêm nhường. Mỗi một trong các khía cạnh này của đời sống đan tu mở ra một không gian cho Thiên Chúa. Và tôi xin chứng minh rằng trong mỗi trường hợp, chính việc cử hành phụng vụ đem lại ý nghĩa cho cái trống rỗng này. Chính việc hát Kinh phụng vụ nhiều lần trong ngày biểu lộ cho thấy rằng cái trống rỗng này được vinh quang của Thiên Chúa lấp đầy.

I. CÓ MẶT Ở ĐẤY


Một điều hiển nhiên nhất đối với anh em, các đan sĩ, là anh em chẳng làm gì đặc biệt cả. Anh em có lao động cày cuốc ở ngoài đồng, nhưng anh em lại chẳng phải là những người làm nghề nông. Anh em có dạy học, nhưng anh em lại không phải là giáo sư. Có thể anh em chịu trách nhiệm điều hành một bệnh viện hoặc một sứ vụ truyền giáo, nhưng anh em tiên quyết lại không phải là những bác sĩ hay là những nhà truyền giáo. Anh em là những đan sĩ, sống theo Tu luật thánh Biển Đức. Anh em không hề làm một điều gì đặc biệt cả. Chung chung, các đan sĩ vẫn là những người rất hoạt động, nhưng hoạt động lại chẳng phải là mục đích cuộc đời của các đan sĩ. Đức hồng y Hume từng viết:
“Chúng tôi không cho mình là những người có một sứ mạng riêng và một chức năng đặc biệt trong Hội Thánh, chúng tôi không có tham vọng thay đổi dòng lịch sử. Chúng tôi có mặt ở đấy, cũng hơi giống như thể tình cờ người ta gặp thấy. Thế thôi! Và chúng tôi vẫn cảm thấy hạnh phúc khi chúng tôi chỉ là có mặt ở đó mà thôi.”[2]
Chính việc thiếu vắng đối tượng rõ rệt như thế biểu lộ cho thấy Thiên Chúa. Đó là là lý do hiện hữu, âm thầm kín đáo, của cuộc đời anh em. Thiên Chúa tỏ mình ra là trung tâm bất khả thị của cuộc đời chúng ta, khi chúng ta không cố tìm cho ra những lời giải thích để cho người ta biết chúng ta là gì. Cốt tủy của cuộc đời Kitô hữu vẫn chỉ là ở với Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Anh em hãy ở lại trong lòng mến của Thầy” (Ga 15,10). Các đan sĩ được mời gọi ở lại trong lòng mến của Người.

Thế giới chúng ta đang sống ngày nay như là một cái chợ, ở đó ai cũng tìm cách làm cho mình được nổi bật lên, được chú ý tới, bằng cách ra sức thuyết phục những người khác để họ thấy rằng cái mình đang bán là cần thiết để sống sung sướng hạnh phúc. Người ta không ngừng nhắc đi nhắc lại cái mà chúng ta cần để được hạnh phúc sung sướng: một cái lò hấp, một cái máy vi tính, đi du lịch chỗ này chỗ kia, một cục xà-bông đời mới. Và đấy quả là một cám dỗ: cho tôn giáo cũng nhảy vào thị trường tranh đua với những người khác. Các bạn cần có tôn giáo để được hạnh phúc, để thành đạt hoặc thậm chí để có thể giàu có nữa. Các giáo phái sinh sôi nảy nở ở Châu Mỹ la-tinh bởi vì các giáo phái ấy hứa hẹn nhiều nguồn lợi. Và rồi Kitô giáo cũng tới điểm hẹn, tự giới thiệu là hoàn toàn giá trị và rất hữu ích. Tuần này, người ta đề nghị tập yoga, tuần tới thì hương liệu chẩn trị. Liệu ta có thể khuyên một ai đó thử một cái xem Kitô giáo là gì không? Tôi nhớ tới cái khăn trong một quán ăn ở Oxford. Ở góc có những chữ rất nhỏ thế này: “Nếu bạn đã có công đọc những hàng chữ li ti này, tức thị bạn đang tìm một cái gì đó. Thế thì tại sao không thử một cái xem đạo công giáo là gì ?”

Chúng ta cần những người Kitô hữu ở những nơi chốn công cộng, hoà mình với những tiếng kêu réo của những đám đông đang chen lấn ở các chợ, cố để lôi kéo chú ý. Đó là chỗ của các anh em Đa minh và các anh em Phan sinh chẳng hạn. Nhưng các đan viện thì lại đưa vào một chân lý nền tảng. Nói cho cùng, chúng ta tôn thờ Thiên Chúa không phải vì điều đó có lợi cho chúng ta, nhưng vì chúng ta tìm thấy ở nơi Người sự biểu lộ tối cao của tất cả những gì có giá, vì Người là ngôi sao sáng của cuộc đời chúng ta. Tôi hay nghĩ rằng đó là bí mật giải thích tại sao Đức hồng y Hume lại có một thế giá đặc biệt. Đức hồng y không cố làm sao để tiếp thị tôn giáo hay để chứng minh rằng Kitô giáo là một thành tố bí mật trong những thành tố làm nên một cuộc đời thành đạt. Người chỉ là một đan sĩ vốn quen đọc kinh. Suy nghĩ cho đến nơi đến chốn thì người ta thấy rằng một vị thần mà phải chứng minh sự có ích của thần đối với tôi thì không đáng bỏ công ra để tôn thờ. Một vị thần mà phải chứng minh rằng mình là có lợi thì cũng có thể là tất cả, trừ là Thiên Chúa. Cuộc đời của một đan sĩ muốn làm chứng cho thấy rằng ta không thể gán cho Thiên Chúa bất kỳ một giá trị nào được, bởi vì vạn sự chỉ có giá trị khi có được tương quan với Thiên Chúa. Đời sống của người đan sĩ chứng nhận điều đó, vì đời sống ấy chẳng có gì là đặc biệt trừ việc ở lại với Thiên Chúa.

Vai trò của viện phụ có thể chỉ là một con người, cũng rất hiển nhiên, không làm gì đặc biệt cả. Các đan sĩ khác có thể thấy mình có nghĩa vụ chu toàn một công việc: giữ kho, coi sóc kẻ liệt, chịu trách nhiệm về vườn tược, coi nhà in hoặc trường học. Nhưng tôi dám xin nói rằng viện phụ có thể là người giữ căn tính sâu xa nhất của các đan sĩ xét như là những người không có cái gì đặc biệt để mà làm. Từng có một người anh em Đa Minh người Anh, Bede Jarette, một nhà giảng thuyết nổi danh, một nhà văn sung sức, từng là Giám tỉnh trong nhiều năm. Cha luôn luôn có vẻ chẳng làm gì cả. Người ta kể lại với tôi rằng, nếu người ta đến thăm cha thì cha không làm gì cả. Nếu người ta hỏi cha xem cha đang làm gì thì hình như cha có thói quen trả lời rằng: “Cha đang chờ xem có ai đến thăm cha không”. Cha có nghệ thuật để làm nhiều chuyện trong khi hình như lại làm rất ít. Đa số trong chúng ta, kể cả tôi nữa, chúng ta lại làm ngược lại. Chúng ta làm sao để có vẻ luôn luôn cực kỳ bận rộn, thậm chí cả khi chúng ta thật sự chẳng làm gì!

Du khách tấp nập tới thăm các đan viện, nhìn thấy các đan sĩ và tham dự giờ Kinh Chiều, có thể khám phá thấy rằng chính sự trống rỗng như thế lại mặc khải Thiên Chúa như thế nào? Sao họ lại không nghĩ đơn giản rằng các đan sĩ là những con người lười biếng và không còn biết những tham vọng, những kỷ lục của cuộc tranh đua tức là cuộc đời là gì? Họ có thể thoáng thấy rằng Thiên Chúa là trung tâm cuộc đời của anh em như thế nào? Tôi linh cảm thấy rằng đó chính là khi họ nghe anh em hát. Thế giá lời mời của anh em nằm trong vẻ đẹp của việc anh em ca tụng Thiên Chúa…Chính vẻ đẹp của việc ca tụng Thiên Chúa bộc lộ cho thấy lý do tại sao anh em có mặt ở đây. Tôi phải thú nhận rằng hồi còn là sinh viên ở Downside, tôi không đạo nghĩa lắm. Hồi ấy tôi trốn ra sau lớp hút thuốc và ban đêm trốn đi ra quán cà phê. Tôi còn bị nhà trường cho về vì đã cả gan đọc một cuốn sách nổi tiếng Người tình của Chatterly đang lúc Chầu Thánh Thể. Nếu tôi còn gắn bó với đức tin, đó là vì tôi mắc nợ vẻ đẹp của những nơi như thế này: vẻ đẹp của những bài hát trong Kinh phụng vụ, vẻ chói ngời của đan viện vào buổi ban mai, nét toả sáng của thinh lặng. Chính vẻ đẹp đã ngăn không cho tôi bỏ tất cả.

Chắc chắn không phải là sự trùng hợp nếu như nhà thần học lớn về vẻ đẹp, Hans Urs von Balthasar, đã được hưởng sự giáo dục đầu đời tại trường học của đan viện Engelberg, một trường lừng danh về truyền thống âm nhạc. Balthasar nói về sự tự mặc khải của cái đẹp, về uy thế nội tại của cái đẹp3. Anh em không thể tranh luận với vẻ đẹp khi vẻ đẹp mời anh em. Mà cũng không đẩy lui được. Và có thể ở đó chúng ta có sự biểu lộ của uy quyền Thiên Chúa đang vang dội một cách mạnh mẽ nhất trong tâm hồn của những người đang sống đồng thời với chúng ta, ở vào một thời mà nghệ thuật đã trở nên một thứ tôn giáo. Ít người đi lễ Chúa Nhật, ngược lại ta thấy có cả triệu người trong các buổi hoà nhạc, các bảo tàng viện và các phòng trưng bày triển lãm. Nơi vẻ đẹp, chúng ta có thể thoáng thấy vinh quang lấp lánh của Đức khôn ngoan Thiên Chúa khi Đức khôn ngoan sáng tạo thế giới đẹp hơn cả mặt trời (Kn 7). Trong bản LXX, khi Thiên Chúa đã sáng tạo xong thế giới, thì Người thấy việc đó là kalos, đẹp. Lòng nhân hậu mời chúng ta dưới dạng thức của vẻ đẹp. Khi nghe thấy nét đẹp của bài hát, ta có thể đoán được tại sao các đan sĩ lại có mặt ở đó, và thoáng thấy cái trung tâm bí mật của cuộc đời các đan sĩ, lời ca ngợi vinh quang. Đây là điều hoàn toàn đặc sắc ở nơi thánh Basiliô: khi người nói về những khát vọng thâm sâu nhất của tâm hồn người. Người nói về điều đó bằng những từ ngữ của vẻ đẹp :
“Đó sẽ là kinh nghiệm nào nữa một khi tôi có thể biết kinh nghiệm này, trong tất cả những gì là đẹp nhất, là đẹp nhất rồi! Đó là kinh nghiệm cao nhất trong tất cả các kinh nghiệm về niềm vui và sung mãn. Điều đẹp nhất trong các điều, tôi gọi đó là Thiên Chúa”[4].
Nếu vẻ đẹp quả là sự mặc khải điều tốt và điều thật, như thánh Thomas Aquinô vốn nghĩ, thì khi ấy có lẽ ơn gọi của Hội Thánh một phần nào là trở thành một nơi mặc khải vẻ đẹp đích thực. Một phần lớn âm nhạc hiện đại, ngay cả trong các nhà thờ, quá là vô nghĩa đến độ khó có thể nói đó là một âm giai của cái đẹp được. Đó là cái để vui đùa thôi, là hiện tượng kitsch, một điều đã được miêu tả như là một thứ biến chất của sự vô nghĩa[5]. Sở dĩ như thế, có lẽ là vì chúng ta rơi vào cái bẫy xem xét vẻ đẹp bằng những từ ngữ của việc sinh lợi, như một cái gì đó hữu dụng giúp người ta mua vui trong một vài trống canh thay vì thấy rằng cái gì đẹp thật thì biểu lộ cho thấy sự thiện.

Tôi hy vọng là anh em không cho là quá kỳ quặc khi tôi nói với anh em rằng đời sống đan tu tự nó là một cái gì đó đẹp. Tôi cảm thấy hấp dẫn khi đọc Tu luật của thánh Biển Đức, ngay ở đầu: “Ta gọi là Tu luật vì nó sắp xếp cuộc đời của những người theo Tu luật này”. Tu luật sắp xếp. Thoạt nhìn, đối với một người Đa minh, điều đó có vẻ là một cái gì đó rất là khuôn phép. Theo kinh nghiệm của tôi, quả là khó bắt các tu sĩ vào khuôn phép. Nhưng ta có thể nghĩ rằng Tu luật không có nghĩa là “kiểm soát”, nhưng đúng hơn cho ta ý tưởng về mực thước, nhịp điệu của một cuộc sống đã có sẵn và đã thành hình. Có thể nó gợi cho ta ý tưởng về một môn học như môn âm nhạc chẳng hạn. Thánh Âu tinh từng cho rằng một cuộc đời đức hạnh là một cuộc đời có tính cách âm nhạc, tất cả đều ở trong hoà điệu. Theo thánh nhân thì yêu thương tha nhân, chính là “gìn giữ trật tự âm nhạc”[6]. Ân sủng là quí là đẹp và một cuộc sống của ân sủng là vẻ đẹp thực sự.

Một lần nữa, chính việc ca hát trong phụng vụ biểu lộ ý nghĩa cuộc đời của chúng ta. Theo thánh Tôma, vẻ đẹp trong âm nhạc chủ yếu gắn liền với đức tiết độ. Không bao giờ được có gì thái quá. Âm nhạc phải giữ được nhịp điệu chính đáng, không được nhanh quá mà cũng đừng quá rề rà, nhưng là nhịp độ đúng mức. Thánh Thomas cho rằng một cuộc đời theo đức tiết độ thì giữ cho chúng ta được trẻ trung và đẹp. Và điều Tu luật hình như đề ra cách riêng, đó là một cuộc đời có mực thước, không có gì quá đà – cho dù tôi không dám chắc chắn hoàn toàn rằng các đan sĩ giữ được nét đẹp và sự trẻ trung hơn bất cứ ai khác! Trong quá khứ, Tu luật chấp nhận là các đan sĩ sẽ không uống một giọt rượu nào, nhưng “vì chúng ta không thể thuyết phục các đan sĩ kiêng rượu, trong khi họ uống một cách chừng mực”. Không được quá đà!

Tôi nhớ ông cậu dòng Biển Đức của tôi rất thích rượu, bởi vì rượu cần thiết cho sức khoẻ của ông – ít là ông tin như thế. Vì ông qua đời lúc gần trăm tuổi, cho nên ông có lý. Ông đã từng thuyết phục bố tôi và các chú tôi là phải lo cho ông có mỗi ngày một chai bordeaux, tôi giả dụ bấy nhiêu là một lượng chừng mực, hợp với điều Tu luật nói về vấn đề cân đong đo đếm[7] (ch. 40). Khi ông đưa lậu các cái món này vào trong đan viện, các đan sĩ luôn luôn ngạc nhiên vì thấy cái giỏ của ông có tiếng kêu leng keng. Với sự giúp đỡ của các cháu chắt ông, những lời giải thích mở rộng thêm đã được chuẩn bị từ trước.

Khi chúng ta nghe các đan sĩ hát, chúng ta nhận thấy âm nhạc làm thành cuộc đời chúng ta, một cuộc đời đã được dàn ra theo nhịp điệu và sự hài hoà của Tu luật thánh Biển Đức. Lời ca ngợi của Israen đã trở thành một chiếc ngai cho vinh quang của Thiên Chúa ngự trị.

II. MỘT CUỘC ĐỜI KHÔNG ĐƯA TỚI ĐÂU


Đời sống của các đan sĩ khiến cho những người lạ ngạc nhiên, không phải chỉ vì anh em không làm gì đặc biệt, nhưng còn vì cuộc đời của anh em không đưa tới đâu cả. Như trong mọi Dòng tu, đời sống của anh em không có được ý nghĩa do việc leo lên những nấc thang cấp bậc. Chúng ta thuần túy là những người anh em và những người chị em, các đan sĩ và các nữ đan sĩ. Chúng ta không có gì phải khao khát để là gì hơn nữa. Một anh lính hoặc một giáo sư sáng giá thì vượt ra khỏi hàng ngũ của họ. Cuộc đời của họ cho thấy nó có giá trị vì người ấy có thể được tiến cử để làm giáo sư hay làm ông tướng. Chúng ta lại không theo kiểu đó. Chỉ có mỗi bậc thang duy nhất ta biết trong Tu luật của thánh Biển Đức đó là bậc thang khiêm nhường. Tôi tin là các đan sĩ, cũng hệt như các anh em Đa minh chúng tôi, đôi khi nuôi dưỡng những giấc mơ thầm kín làm sao để thăng tiến và ôm tham vọng trở thành anh thủ kho [quản lý] và thậm chí được làm viện phụ. Tôi chắc chắn rằng có nhiều viện phụ soi gương và tưởng tượng xem với cây thánh giá đeo trên ngực và cái mũ cà cuống trên đầu thì mình giống như cái gì, và giả vờ ban phép lành hy vọng không có ai nhìn thấy! Nhưng hẳn ai trong chúng ta cũng dư biết là không phải việc leo lên thang chức bậc mà đúng hơn là việc mau bước tiến về Vương Quốc mới là nét tạo hình cho cuộc đời của chúng ta. Thánh Biển Đức bảo Tu luật được ban cho chúng ta để chúng ta vội vã tiến về quê hương của chúng ta nơi thiên quốc.

Tôi nhớ đến một viện phụ gia đình chúng tôi rất quí mến và người lại có thói quen là cứ đến lễ Noel là người lại ghé đến nhà chúng tôi. Người đáng khâm phục ở mọi điểm, trừ ra nếu có là người hơi có khuynh hướng trịnh trọng cho ra vẻ viện phụ – đây không phải là trường hợp của bất cứ một người nào đang hiện diện ở đây, tôi xin chắc chắn như vậy. Thế thì người được cả gia đình chúng tôi ra nhà ga đón, và người cũng muốn là ở cửa số bốn, cứ sáu đứa trẻ con một quì gối xuống trước mặt người để hôn nhẫn. Thái độ trọng kính này ăn sâu trong gia đình đến nỗi có một người chị của tôi nổi danh vì thường quì gối trước khi vào chỗ ngồi xem xi-nê! Mỗi lần viện phụ của chúng tôi đến thăm gia đình là cuộc chiến chân đèn hằng năm bắt đầu. Số là viện phụ cương quyết cho rằng một viện phụ thì có quyền được bốn chân đèn bằng bạc, nhưng bố tôi không khoan nhượng, cứ luôn tuyên bố rằng ở nhà của ông thì mọi linh mục đều được số chân đèn như nhau!

Ngày nay, đối với đa số người, một cuộc đời mà không có thăng cấp là một cuộc đời không có ý nghĩa, bởi vì sống có nghĩa là nhảy vào đấu trường để giành lấy chiến thắng, một là tiến hai là toi. Ấy chính vì thế mà cuộc đời của chúng ta cứ là một điều bí ẩn, là một dấu chấm hỏi. Bên ngoài thì cuộc đời ấy chẳng đưa tới đâu. Hồi tôi mới được bầu làm Tổng Quyền Dòng, một anh nhà báo tên tuổi đã viết một bài trong tờ New Catholic Reporter. Anh ấy kết thúc bài báo bằng cách ghi nhận rằng đến khi tôi kết thúc nhiệm kỳ thì tôi mới chỉ có 55 tuổi. “Rồi sau đó Radcliffe sẽ làm gì?” anh ta hỏi như thế. Khi đọc bài báo ấy, tôi rất khó chịu. Cứ như thể là người ta tước mất lý do hiện hữu của cuộc đời tôi vậy, và người ta muốn buộc tôi phải đi vào những phạm trù (loại) khác. Radcliffe sẽ làm gì sau đó? Theo cái logic đó thì cuộc đời của tôi chỉ giữ được ý nghĩa nếu có một cuộc lên chức mới. Nhưng tại sao tôi lại phải làm điều khác hơn là sống tư cách một tu sĩ Dòng Đa Minh? Cuộc đời của chúng ta có ý nghĩa thực của nó, đúng vậy, trong sự thiếu vắng sự thăng tiến, để chỉ cho thấy Thiên Chúa là mục đích tối hậu của cuộc đời chúng ta.

Một lần nữa, tôi lại phải nói rằng chính trong khi hát Kinh phụng vụ mà phát biểu trên đây có ý nghĩa, khi ta lại đi vào lịch sử dài của công trình Cứu Chuộc. Đầu năm nay, tôi có dịp đi tới nhà thờ chính toà Monreale ở Sicile, cạnh đan viện Biển Đức cổ kính. Tôi có ít thời giờ, nhưng trước khi đi, người ta bảo tôi rằng kẻ nào đi Palermo mà không thăm Monreale thì kể như khi đến thì là một con người nhưng khi đi thì lại như một con lợn! Đấy là một kinh nghiệm đáng kể. Toàn thể bên trong đầy những bức ảnh màu rực rỡ thuật lại lịch sử công trình sáng tạo và cứu chuộc. Vào trong nhà thờ tương đương với việc đặt mình lại trong lịch sử, trong lịch sử của chúng ta. Đó là lịch sử đích thực của nhân loại, mà không phải là cuộc đấu tranh để leo lên đến ngọn cây. Đó là một mặc khải cấu trúc của thời gian đích thực. Lịch sử đích thực không phải là một lịch sử của thành đạt cá nhân, của lên thang cấp bậc hoặc tranh giành: đó là lịch sử của hành trình nhân loại tiến đến Vương Quốc. Lịch sử được cử hành mỗi một năm trong chu kỳ phụng vụ từ mùa Vọng tới lễ Hiện Xuống, lịch sử lên cao điểm trong màu xanh của mùa Thường niên, thời của chúng ta.

Đó mới là thời gian đích thực, ôm ấp tất cả các biến cố nhỏ nhoi cũng như những tấn bi kịch của cuộc đời chúng ta. Đó là thời gian gom góp những thất bại và những chiến thắng con con trong hành trình của chúng ta lại và cho chúng một ý nghĩa. Việc cử hành năm phụng vụ trong đan viện là sự mặc khải thời gian đích thực, tức là lịch sử duy nhất quan trọng. Những giai đoạn khác nhau trong phụng vụ một năm – mùa Thường niên, lễ Giáng sinh, mùa Chay và lễ Phục sinh – phải được làm cho khác nhau đủ, với những cung những điệu hát khác nhau, như mùa xuân khác với mùa hè và mùa hè lại khác với mùa thu. Các thời gian ấy phải phân biệt nhau đủ để không bị nhận chìm bởi những nhịp điệu khác, như năm tài chánh, năm học, tức là những năm chúng ta tính được và làm nên tuổi của chúng ta. Một người anh em Nam Triều Tiên chúng tôi tên là Kim en Jong đã tạo ra những cái áo lễ trên đó nổi hẳn những trang trí màu sắc của các mùa.

Thường thì phụng vụ hiện đại không chuyển tải điều đó. Khi anh em đi hát Kinh Chiều, thì có thể là cả năm lúc nào cũng như lúc nào, cũng bấy nhiêu sự. Nhưng trong cộng đoàn Oxford nơi tôi đã sống hai mươi năm, chúng tôi soạn ra những điệp ca cho mỗi một mùa. Ngay cả khi tôi đi đây đi đó, tôi vẫn như thể đang nghe thấy những điệp ca đó. Đối với tôi, mùa Vọng gợi lên một số làn điệu của các bài thánh thi, các điệp ca riêng cho kinh Benedictus hoặc Magnificat. Chúng tôi biết lễ Noel gần bên rồi khi chúng tôi nghe những điệp ca cổ kính “O”. Tuần Thánh thì có những Ai ca của ngôn sứ Giêrêmia. Chúng tôi được sống nhịp độ của năm phụng vụ như là nhịp độ thâm sâu nhất của cuộc đời chúng tôi. Phụng vụ trong đan viện nhắc chúng ta nhớ rằng chúng ta đang tiến đến Vương Quốc của Thiên Chúa. Chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra ngày mai hoặc thế kỷ tới. Chúng ta không cần phải đưa ra những lời tiên báo, nhưng sự khôn ngoan của chúng ta là sống cho mục đích tối hậu kia.

Tôi xin thêm một chút để linh động câu kết trên đây. Nói rằng các tu sĩ sống vì Nước Trời đang tới thì dễ, nhưng trong thực tế, thường chúng ta không thực hành điều đó. Năm phụng vụ vạch ra vương đạo đi tới sự tự do nhưng chúng ta không vay mượn nó mãi mãi. Theo thánh Thomas, việc đào tạo, đặc biệt là việc đào tạo về luân lý, mãi mãi là đào tạo sao cho biết thế nào là tự do. Nhưng việc đi vào trong tự do chậm chạp và nhọc nhằn, nó có những sai lầm, những lựa chọn chẳng ra đâu vào đâu, rồi cả tội lỗi nữa. Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ Ai cập và dẫn đưa chúng ta tới sự tự do của hoang địa nhưng chúng ta lại đâm hoảng và lại để cho chính mình trở thành nô lệ con bò vàng hoặc tìm cách quay trở lại Ai cập. Đó đúng là bi kịch trong cuộc sống thường nhật của một đan sĩ: không phải là tìm hiểu xem trong các thứ bậc của bổn phận có cái gì để gọi là thăng chức hay không nhưng là học tập cho biết sống sự tự do, với những đổ vỡ vẫn hay diễn ra trong tính cách ấu trĩ và nô lệ. Liệu chúng ta có thể đem lại một ý nghĩa cho dấu thăng tiến đến sự tự do của Thiên Chúa và cho dấu giáng vẫn năng diễn ta trong sự nô lệ này như thế nào? Một lần nữa: có thể chính trong âm nhạc là chỗ chúng ta tìm ra chìa khoá để mở vấn đề.

Theo thánh Âu tinh, lịch sử nhân loại ví như thể một bản độc tấu, trong đó có đủ cả những đối âm và những dị âm tức là những yếu đuối của con người, nhưng sau cùng nó cũng phải đi tới chỗ thành một bài nhạc trong đó mỗi thứ đều có chỗ của mình. Trong tác phẩm đáng chú ý, De musica, thánh nhân viết: “Những dị âm có thể được chuộc lại mà không bị hủy đi”[8]. Lịch sử ơn Cứu Chuộc ví được như một bản đại hoà tấu ôm ấp hết mọi sai lầm của chúng ta, xoá đi mọi ngu muội của chúng ta và sau cùng trong đó vẻ đẹp toàn thắng. Chiến thắng không có nghĩa là Thiên Chúa xoá sạch mọi nốt nhạc không hay hoặc tuyên bố rằng chúng không hề có. Người tìm cho chúng một chỗ trong bản hoà tấu, bản hoà tấu chuộc lại những nốt nhạc không hay. Điều ấy lên đến đỉnh cao trong Thánh Thể. Theo kiểu nói của Catherine de Pickstock, “âm nhạc cao nhất trong cái thế giới sa đoạ này, âm nhạc có tính cách cứu chuộc, không là gì khác hơn là hiến tế không ngừng được lặp lại của chính Đức Kitô, hiến tế ấy làm nên âm nhạc Thánh Thể không ngừng được lặp lại”[9].

Thánh Thể là việc nhắc đi nhắc lại đỉnh cao trong bi kịch của việc giải phóng chúng ta. Đức Kitô tự do ban tặng thân mình Người, nhưng các môn đệ bỏ Người, chối Người, trốn xa Người, mạnh bạo quả quyết là không biết Người. Ở đây, trong âm nhạc là những mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, chúng ta gặp thấy những gì là bất hoà điệu sâu xa nhất. Nhưng trong Thánh Thể, chúng được thu góp lại, được ôm ấp lấy và được biến đổi thành vẻ đẹp, trong một hành vi yêu thương và ban tặng. Trong bản nhạc là Thánh Thể này, chúng ta được làm lại hoàn toàn và chúng ta tìm lại được sự hoà điệu. Chính cách giải hoà điệu không xoá bỏ những thái độ từ chối yêu thương và tự do hoặc muốn làm cho tin rằng chúng không hề có, nhưng biến đổi chúng từng chặng một trên một lộ trình. Trong các cuộc cử hành chúng ta dám tưởng niệm sự yếu đuối của các Tông Đồ.

Như vậy đan sĩ có ý nghĩa nhờ cuộc đời của mình mà kết thúc là Vương Quốc. Lịch sử của chúng ta là lịch sử của nhân loại trong cuộc hành trình tiến đến Vương Quốc. Chúng ta diễn tả trong chu kỳ năm phụng vụ, từ công cuộc Sáng tạo cho đến Vương Quốc. Nhưng bi kịch hằng ngày trong cuộc đời của người đan sĩ lại phức tạp hơn, với những đấu tranh và những yếu đuối để trở nên tự do. Bản hoà tấu hằng năm của cuộc hành hương tiến về Vương Quốc cần được chấm phá bằng những nốt nhạc hằng ngày là Thánh Thể, nhìn nhận rằng chúng ta vẫn cứ hay từ khước theo con đường tiến đến Giêrusalem, con đường đưa tới cái chết và tới cuộc Phục sinh, mà chọn kiếp nô lệ. Chúng ta cần tìm lại mình mỗi ngày trong bản nhạc là Thánh Thể, trong đó không thể có dị âm nào quá mạnh đến độ ở ngoài tầm hoá giải sáng tạo của Thiên Chúa.

III. KHOẢNG KHÔNG NỘI TÂM


Cuối cùng, chúng ta đi tới cái làm thành yếu tố nền tảng của đời sống đan tu, cái là đẹp nhất nhưng cũng là khó miêu tả nhất: đức khiêm nhường. Đó là cái những người đến thăm các đan viện của anh em ít có thể nhìn thấy trực tiếp nhất, thế nhưng mà lại là nền của toàn thể công trình. Đức hồng y Hume nói: đức khiêm nhường “trông thì rất đẹp, nhưng nỗ lực để trở nên khiêm nhường thì quả là thương đau”[10]. Chính đức khiêm nhường thu xếp để có được một khoảng không trống trải cho Thiên Chúa, ở đó Người có thể lưu lại và ở đó vinh quang của Người có thể được chiêm ngắm. Nói cho cùng, chính đức khiêm nhường làm cho các cộng đoàn của chúng ta thành ngai của Thiên Chúa.

Ngày nay, khó tìm được từ để nói về đức khiêm nhường. Xã hội của chúng ta hầu như mời chúng ta vun đắp điều trái ngược lại, tức là một khuynh hướng xác định mình cách tự mãn, một sự bảo đảm dữ dội. Con người thành đạt tiến lên phía trước mang theo một thái độ gây hấn. Khi đọc thấy, ở cấp độ thứ bảy của đức khiêm nhường, rằng chúng ta phải học cho biết nói cùng với vị ngôn sứ: “Tôi là một con sâu chứ không phải là một con người”, chúng ta đâm khựng lại. Phải chăng vì chúng ta quá kiêu căng? Hoặc giả vì chúng ta không dám chắc về chính mình, quá ít xác tín về giá trị của chúng ta? Có thể chúng ta không dám khẳng định rằng chúng ta là những con sâu vì chúng ta luôn sợ hãi do nói như thế thì là quá đúng.

Làm thế nào để xây dựng những cộng đoàn có khả năng làm dấu chỉ sống động cho vẻ đẹp của đức khiêm nhường? Làm thế nào chúng ta có thể biểu lộ sức mạnh lôi cuốn của đức khiêm nhường trong một thế giới thích gây hấn? Chỉ có anh em là những người có thể trả lời cho câu hỏi đó. Thánh Biển Đức đã là bậc thầy về đức khiêm nhường. Tôi không dám chắc rằng đức khiêm nhường luôn luôn là nhân đức nổi bật nơi mọi anh em Đa Minh! Nhưng tôi cũng xin chia sẻ với anh em một suy nghĩ vắn. Khi nghĩ đến đức khiêm nhường, chúng ta có thể quan niệm nó như một thứ đồ vật vô cùng cá nhân và riêng tư: tôi quan sát tôi để thấy rằng tôi khốn nạn biết chừng nào, tôi xét đi xét lại bên trong tôi về những phẩm tính kết nối tôi với một con sâu đất. Có đó, ít là phần nào, một cái nhìn đúng là đè bẹp. Có lẽ thánh Biển Đức mời chúng ta làm một cái gì đó giải phóng hơn: kiến tạo một cộng đoàn trong đó chúng ta được giải phóng khỏi những sự kình địch, ganh đua hoặc đấu đá để có quyền hành. Đây là một típ cộng đoàn mới, xây dựng trên sự trọng kính và vâng phục lẫn nhau. Đây là một cộng đoàn trong đó chẳng có ai là người chiếm vị trí trung tâm. Trung tâm vẫn cứ là để trống, một khoảng không trống trải chỉ được đầy ắp do vinh quang của Thiên Chúa mà thôi. Điều ấy cũng hàm chứa một thách đố thực sự đối với hình ảnh hiện đại về cái tôi, về cái tôi tự bản chất là đơn độc, hoàn toàn qui về bản thân mình, cho mình là cái rốn của thế giới và là cái trục chính yếu mọi cái khác đều phải xoay chung quanh đó. Căn tính của nó không gì khác hơn là cái ý thức nó có về chính bản thân mình. “Tôi suy tư cho nên tôi hiện hữu”.

Đời sống đan tu mời chúng ta rời bỏ cái trung tâm ấy đi và để cho mình chuyển động do sức lôi cuốn của ân sủng. Đời sống ấy mời chúng ta không coi mình là trung tâm. Một lần nữa, Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta trong một chỗ trống không, và chúng ta thấy trong trường hợp này, ở trung tâm cộng đoàn, khoảng không gian trống trải dành riêng cho Thiên Chúa. Chúng ta phải sửa soạn một chỗ để Lời đến cư ngụ giữa chúng ta, một khoảng không ở đó Thiên Chúa có thể hiện hữu. Như thế, khiêm nhường không hệ tại ở chỗ ta ghét bản thân ta hay nghĩ rằng ta là đáng khinh đáng ghét. Đúng hơn, khiêm nhường là làm cho trái tim của cộng đoàn thành hình, bằng cách mở ra một khoảng không ở đó Lời có thể đến mà dựng lều của Người.

Một lần nữa: tôi nghĩ rằng chính trong phụng vụ chúng ta có thể gặp thấy mặc khải của vẻ đẹp này. Thiên Chúa đặt ngai của Người trên các lời ca tụng của Israen. Chính khi nhìn thấy các đan sĩ hát những lời ca tụng Thiên Chúa mà người ta có thể nhận thấy sự tự do và vẻ đẹp của đức khiêm nhường. Thời Trung Cổ, người ta vốn cho rằng một hoà điệu âm nhạc đàng hoàng đi đôi với việc kiến tạo một cộng đoàn hài hòa[11]. Âm nhạc chữa lành tâm hồn và cộng đoàn. Chúng ta không thể đồng thanh ca hát nếu mỗi người cứ tìm cách làm sao cho mình nổi lên, cố để cho tiếng của mình lớn hơn tiếng của người bên cạnh. Đàn ca hát xướng là việc chúng ta cùng nhau làm. Tôi chắc rằng chung nhau ca hát cho du dương hoà hợp, học xướng lên nốt nhạc thích hợp và tìm được chỗ đúng đắn của nó trong làn điệu là cách để dạy chúng ta trở nên những người anh em và, do chính sự kiện đó, tỏ cho người khác thấy chung sống không đối địch không tranh đua nghĩa là gì.

Trong tất cả những chuyện đó, vai trò của viện phụ là vai trò nào? Tôi ngại phải nói chuyện này, vì trong lịch sử Dòng Đa Minh, chúng tôi chỉ có mỗi một người được gọi là viện phụ, một người anh em nào đó tên là Mátthêu. Nhưng đó cũng đúng là một tai hoạ, đến độ sau đó chúng tôi không bao giờ có một viện phụ nào khác nữa. Nhưng viện phụ có thể là người giữ khoảng không mở để đón Đức Kitô, ở trung tâm. Muốn diễn tả điều ấy theo ngôn ngữ âm nhạc, viện phụ sẽ không để cho mình thống trị tiếng hát ca, bóp nghẹt tiếng của các đan sĩ khác, làm cho mình thành một Pavarotti[12] của đan viện. Viện phụ sẽ là người để cho sự du dương hoà hợp dẫn dắt. Và anh em có thể nhận thấy tức thì ngay trong cách hát. Người ta có thể nhận thấy phẩm chất của một cộng đoàn bằng cách nghe cộng đoàn ấy hát. Các thầy dòng Biển Đức và các anh em Đa Minh hát khác nhau!

Đỉnh cao của đức khiêm nhường, đối với một đan sĩ , đó là khi đan sĩ khám phá thấy rằng không phải chỉ có việc mình không phải là cái rốn của thế giới, nhưng mình thậm chí chẳng phải là trung tâm của chính mình nữa. Không phải chỉ có một sự trống vắng ở trung tâm cộng đoàn để Thiên Chúa ngự ở đó, nhưng còn có một khoảng trống giữa hiện hữu của tôi nữa, ở đó Thiên Chúa có thể dựng lều của Người. Tôi là một thụ tạo được Thiên Chúa ban cho hiện hữu vào mỗi một giây phút. Trong các bức ảnh kính màu ở đan viện Monreal, ta thấy Thiên Chúa đang sáng tạo Ađam. Thiên Chúa cho ông Ađam hơi thở của Người và giữ ông trong hiện hữu của Ngưởi. Ở giữa hiện hữu của tôi, không phải chỉ có mình tôi. Thiên Chúa đang ở đó, thổi cho tôi hiện hữu mỗi phút giây, cho tôi hiện hữu. Ở trung tâm của bản thân tôi, không phải là cái tôi đơn độc hoặc theo kiểu Descartes, nhưng còn có một khoảng không đầy tràn Thiên Chúa.

Có thể ơn gọi tối hậu của đan sĩ là tỏ cho thấy vẻ đẹp của sự trống vắng này, cả cá nhân lẫn cộng đoàn trở thành những ngôi đền thờ trong đó vinh quang Thiên Chúa có thể lưu lại. Anh em đừng ngạc nhiên nếu tôi nghĩ rằng điều đó được biểu lộ trong việc hát lên những bài ca ngợi Thiên Chúa. Ở đây, tôi đã đi quá đề tài tôi thực sự có thẩm quyền để nói, nhưng tôi chỉ đề cập đến đề tài ấy vì tôi thấy điều đó hấp dẫn. Nếu anh em cho rằng tôi nói linh tinh, thì có thể là anh em có lý!

Bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào cũng đều là âm vang của công trình sáng tạo tiên khởi. Chính trong nghệ thuật mà chúng ta có ý tưởng xác đáng nhất về việc sáng tạo thế giới từ hư vô có nghĩa là gì đối với Thiên Chúa. Nét độc sáng của mỗi công trình nghệ thuật đưa về nguồn gốc của tất cả những gì đang hiện hữu. Mỗi bài thơ, mỗi bức hoạ, mỗi công trình điêu khắc, mỗi bài hát đều cho chúng ta ý tưởng về việc đối với Thiên Chúa sáng tạo nghĩa là gì. Georges Steiner viết:
“Ở ngọn nguồn của bất kỳ hành vi nghệ thuật nào đều có giấc mơ về một sự lưu xuất khởi đi từ hư vô, một sự sáng tác ra một hình thức diễn tả thật mới mẻ, thật đặc sắc từ tác giả, đến nỗi nó bỏ thế giới đi trước lại đằng sau thật xa”[13].
Trong truyền thống Kitô giáo, điều đó đặc biệt đúng đối với âm nhạc. Theo thánh Âu tinh, chính trong âm nhạc, nơi âm thanh phát khởi từ thinh lặng, mà chúng ta có thể thấy điều mà nó tượng trưng về một vũ trụ chẳng dựa trên gì cả, là bất tất và, đối với chúng ta, là những thụ tạo: “Sự luân chuyển giữa âm thanh và thinh lặng trong âm nhạc được thánh Âu tinh quan niệm như là biểu lộ sự luân chuyển của cái đến hiện hữu và đi qua đến không hữu thể, làm nét đặc biệt cho một vũ trụ được sáng tạo từ hư vô”[14]. “Trong âm nhạc, chúng ta nghe thấy – tôi lại trích dẫn Steiner – dấu vết không ngừng được đổi mới của khoảnh khắc uyên nguyên, không bao giờ tới được hoàn toàn, của công trình sáng tạo (…), sự kiện thứ nhất không thể đạt tới được”[15]. Đó là tiếng vang của big bang hoặc, nói như Tavener là tiền âm vang của sự thinh lặng thần thánh.

Giữa lòng cuộc đời đan tu có đức khiêm nhường. Tôi nghĩ rằng không phải là sự khiêm nhường cực kỳ, đè bẹp của những kẻ ghét bản thân mình, nhưng là sự khiêm nhường của những người nhìn nhận mình là những thụ tạo và đón nhận cuộc hiện hữu của mình như là một ân huệ. Và như vậy ca hát có giữ vị trí trung tâm trong cuộc đời của anh em cũng là chuyện bình thường. Vì chính trong việc ca hát này chúng ta biểu dương hoạt động của Thiên Chúa, nguyên nhân của muôn vật muôn loài. Anh em ca hát ngợi khen Lời của Thiên Chúa nhờ Người muôn vật đã được tạo thành. Chúng ta có thể thấy ở đây vẻ đẹp còn hơn là một thú vui đơn thuần. Đây là vẻ đẹp để mừng công trình Sáng tạo ra đời.

Để kết luận. Tôi đã trình bày trong bài nay rằng vinh quang Thiên Chúa luôn luôn cần một khoảng không, một khoảng trống, để bộc lộ chính mình: khoảng không ở giữa các cánh của Kêrubim trong Đền Thờ; ngôi mộ trống; một Đức Giêsu biến mất ở Emmaus. Tôi đã gợi ý rằng nếu anh em thu xếp được những khoảng không trống trải như thế trong cuộc đời của anh em, bằng cách trở thành những con người không có lý do hiện hữu đặc thù [I], tức là cuộc đời chẳng đưa đến cái gì cả [II], và không sợ nhìn nhận thân phận thụ tạo của mình [III], bấy giờ các cộng đoàn của anh em sẽ nên những ngai vàng cho vinh quang Thiên Chúa ngự trị.

Điều tôi hy vọng thoáng thấy trong các đan viện thì còn hơn là điều tôi có thể nói lên. Vinh quang của Thiên Chúa vượt khỏi mọi lối diễn tả. Mầu nhiệm làm vỡ tung những ý thức hệ bé nhỏ hẹp hòi của chúng ta. Như thánh Thomas Aquinô, chúng ta thấy là tất cả những gì chúng ta có thể nói chỉ là rơm là rác. Điều ấy phải chăng hàm ý tốt hơn là thinh lặng không nói gì cả? Không, vì các đan viện không phải chỉ là những nơi thinh lặng mà thôi, nhưng cũng còn là những nơi người ta ca người ta hát. Chúng ta phải tìm những cách thế để ca hát cho đến tận giới hạn của ngôn ngữ, cho đến tận những ranh giới của điều bất khả diễn đạt.

“Bạn hỏi hát lên với tiếng reo hò nghĩa là gì. Nghĩa là không chịu hiểu, không chịu nói với những từ ngữ điều đang được hát lên trong tâm hồn. Bạn cứ nhìn những người đang hát, những người thợ gặt, những người thợ hái nho hoặc những người khác mà coi, niềm vui của họ trước hết được khơi lên trong những lời lẽ của bài ca, nhưng không bao lâu niềm vui át hẳn những lời đó, và lời lẽ trở thành không còn khả năng để giãi bày niềm vui nữa. Bấy giờ, họ bỏ từ ngữ bỏ chữ nghĩa đi và ta chỉ còn nghe thấy tiếng reo hò của họ mà thôi. Đó là nhạc không lời, bởi vì trái tim muốn giãi bày điều không thể nói ra được. Việc reo hò này còn xứng hợp với ai hơn là xứng hợp với Thiên Chúa khôn tả?”[16]

Chú thích

  1. ......
  2. In Praise of Benedict, p.23
  3. Aidan Nichols, o.p., The Word has been Abroad, Edimbourg, 1998, p.1
  4. To be a Pilgrim, Stough, 1984; édition francaise: Être pèlerin, Mediaspaul, 1984, p. 35
  5. George Steiner, Reelles Présences, Paris, Gallimard, 1991
  6. Th. Augustinô, De Musica, VI,14,46
  7. Một đơn vị có dung lượng tương đương với 25 cl
  8. Ibid., p.265
  9. “Music: Soul and city and cosmos after Augustine” trong: John Millbank, er al., Radical Orthodoxy, Londres, 1999, p.276, note 131
  10. Être pèlerin, p.60
  11. x. C. Pickstock, p. 262
  12. Danh ca giọng ténor người Italia, nổi tiếng thế giới
  13. G. Steiner, p. 202
  14. C. Pickstock, p. 247
  15. G. Steiner, p. 202, 210
  16. Thánh Augustinô, in Ps. 32, Sermo 1,8 trong “Prier Dieu, les psaumes”. Paris, Éd. du Cerf, 1982, p. 185

Thứ Bảy, 29 tháng 1, 2022

CHỨC LINH MỤC DÒNG ANH EM GIẢNG THUYẾT

Thời sự Thần học – Số 4, tháng 12/2009, tr. 166-174.

_J.b Nguyễn Đăng Trực_

Gần đây, trong một bài phỏng vấn, Linh mục David Toups, phụ tá Giám Đốc văn phòng Giáo sĩ, đời sống thánh hiến và ơn gọi của Hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ, khẳng định rằng: mãi tới hôm nay vẫn còn nhiều linh mục và giáo dân nhầm lẫn về khái niệm chức linh mục thừa tác và chức linh mục cộng đồng của mọi tín hữu đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy, gọi tắt là chức linh mục tín hữu. Việc đề cao hai chức linh mục thừa tác và tín hữu khiến nhiều người có cảm tưởng hai chức linh mục đó đang cạnh tranh nhau hay loại trừ nhau. Chính Đức Gioan Phaolô II cũng xác nhận có hiện tượng “giáo sĩ hóa” giáo dân và “giáo dân hóa” giáo sĩ, do quan niệm mơ hồ về hai chức linh mục. Nguyên nhân của sự hàm hồ này theo linh mục David Toups là do một thứ thần học mà theo từ ngữ ngài dùng là “bad” theology. Vì thế ưu tiên của triều Giáo hoàng Gioan Phaolô II theo linh mục Toups là sửa chữa nhận thức sai lầm của loại thần học này.

Ngay trong chức linh mục thừa tác cũng có những quan niệm khác nhau: có người dựa vào văn kiện Công đồng Vat II trong sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục đưa ra một định nghĩa tổng quát về chức linh mục như mô hình chuẩn mực cho chức linh mục thừa tác: Các linh mục là những người điều hành các cộng đoàn tín hữu địa phương và thi hành thừa tác vụ bí tích trong sự hiệp thông với các Giám mục giáo phận mình. Chắc hẳn quan điểm này không có gì sai trái, nhưng chức linh mục trong Giáo hội còn có nhiều kiểu mẫu và hình thức khác nữa: chức linh mục trong cương vị mục tử khác với chức linh mục thuộc một dòng chiêm niệm và cũng khác với chức linh mục thuộc dòng tu tông đồ. Chức linh mục dòng Anh em Thuyết giáo là chức linh mục thuộc dòng giáo sĩ tông đồ.

Chức linh mục trong Giáo hội công giáo kết hợp hai vai trò: phụng tự và ngôn sứ (Karl Rahner: “Priestly existence”)

Chức linh mục phụng tự (cultic priesthood) tiến hành qua thừa tác vụ bí tích, chủ tọa kinh nguyện phụng vụ tại các cộng đoàn tín hữu đia phương. Vai trò này nổi bật nơi các linh mục dòng tu chiêm niệm hay đan tu, các linh mục thuộc kinh sĩ hội hay các linh mục trong vai trò mục tử. Chức năng của chức linh mục phụng tự chủ yếu hướng dẫn cộng đoàn qui hướng về Thiên Chúa qua kinh nguyện, phụng vụ và hồng ân bí tích.

Chức linh mục ngôn sứ (prophetic priesthood) tiến hành qua thừa tác vụ Lời dưới nhiều hình thức khác nhau để Lời có thể được nghe, được nhập thể, được thâm nhập vào đời sống con người. Qua thừa tác vụ Lời, Lời Chúa được truyền đạt tới con người, để chân lý Tin Mừng hướng dẫn đời sống của họ.

Trên bình diện thực hành, không thể tách biệt hai yếu tố hay giản lược yếu tố này vào yếu tố kia và nếu không vượt qua được khuynh hướng phân cực của hai yếu tố đó, có thể dẫn tới khủng hoảng về căn tính linh mục. Tuy nhiên, qua các giai đoạn lịch sử Giáo hội, yếu tố này có thể được diễn tả rõ nét hơn yếu tố kia.

Thứ Tư, 26 tháng 1, 2022

CHỨC LINH MỤC THỪA TÁC VÀ CÁC LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM

Thời sự Thần học – Số 4, tháng 12/2009, tr. 160-165.

_J. b Nguyễn Đăng Trực_

Đức Bênêđictô 16 trong thư gửi các linh mục thế giới 18/6/2006 nhân dịp khai mạc năm các linh mục, khi nói về mối tương quan giữa chức linh mục thừa tác với những lời khuyên Phúc âm, ngài không còn đặt vấn đề tương hợp hay không nữa mà coi vấn đề như đã được khẳng định trong sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục của công đồng Vat II Sắc lệnh đã cống hiến những suy tư thần học về sự tuân phục, độc thân (khiết tịnh) và khó nghèo từ số 15 đến 17. Vì thế trong thư ngài chỉ đề cập đến cách sống những lời khuyên Phúc âm của Cha sở họ Ars như mô hình thích hợp cho bậc linh mục hôm nay mà thôi. Theo đó: sự khó nghèo của cha sở họ Ars không phải là sự khó nghèo của một tu sĩ hay đan sĩ nhưng là sự khó nghèo thích hợp với một linh mục thừa tác. Mặc dầu quản lý nhiều tiền bạc (vì các khách hành hương khá giả thường quan tâm tới các công cuộc bác ái của ngài), ngài nhận thức rằng mọi sự được quyên cúng là dành cho người nghèo, trẻ mồ côi, nhà ở cho các cô gái Providence, các gia đình có phương tiện sinh sống khiêm tốn. Bởi vậy, ngài giàu có khi ban phát cho người khác nhưng rất nghèo đối với chính bản thân. Như ngài giải thích: Bí quyết của tôi là sống giản dị: cho đi mọi sự, chẳng giữ lại gì. Khi ngài hết tiền ngài nói với những người nghèo đến gõ cửa nhà ngài với những lời lẽ rất dễ thương: hôm nay tôi cũng nghèo như anh em. Hôm nay tôi là một người trong anh em. Về cuối đời ngài có thể nói một cách thanh thản tuyệt đối: tôi chẳng còn gì, Đức Chúa có thể gọi tôi ra đi bất cứ lúc nào Ngài muốn.

Sự khiết tịnh của ngài cũng là do thừa tác vụ linh mục đòi hỏi. Có thể nói đó là sự khiết tịnh thích hợp cho người mỗi ngày được tiếp cận với Thánh Thể, chiêm ngắm với tâm hồn tràn đầy niềm vui và cũng với chính niềm vui ấy ngài lại dâng hiến nó cho đoàn chiên của ngài. Người ta nói rằng: ngài đã chiếu tỏa sự khiết tịnh. Tín hữu nhận ra điều này khi thấy ngài qui hướng nhìn lên Nhà Tạm với đôi mắt trìu mến.

Cuối cùng sự tuân phục của thánh Gioan Maria Vianey được biểu hiện trọn vẹn trong sự thành tín tận tụy với những đòi hỏi thường ngày của một thừa tác vụ linh mục. Chúng ta đâu biết rằng, ngài đã bị dày vò day dứt thế nào, khi nghĩ tới sự bất xứng của mình đối với việc phục vụ giáo xứ và chỉ mong trốn thoát được để than khóc cho cuộc đời đáng thương của mình trong cô tịch. Chỉ vì đức tuân phục và lòng khao khát các linh hồn mới thuyết phục ngài trụ lại nhiệm sở mà thôi. “Chỉ làm những gì có thể được tiến dâng lên Đức Chúa nhân lành, ngài coi đây là luật vàng cho một đời tuân phục.

Tuy nhiên, cũng không nên bỏ qua những suy tư thần học về vấn đề này:

Nhà thần học Hans Urs von Balthasar biện luận như sau: “Trong Giáo hội, đi tu được diễn tả theo hai tình trạng cuộc sống khác nhau: đời sống tu trì với lời khuyên Phúc âm và đời sống thừa tác vụ linh mục. Cả hai tự bản chất qui hướng về nhau. Theo Balthasar, lời khuyên Phúc âm biểu thị một ơn gọi có tính cách bản thân nghĩa là hướng đến đức ái hoàn thiện. Tu sĩ tuyên khấn vì muốn dâng hiến trọn bản thân mình cho Thiên Chúa, còn sự khó nghèo, khiết tịnh và tuân phục là những biểu tượng diễn tả chân lý: người tận hiến không còn giữ lại cho mình điều gì, chỉ ước muốn dâng hiến trọn vẹn bản thân cho Thiên Chúa. Một khi đã từ bỏ mọi sở hữu: thân xác và ý chí thì chẳng còn gì cho đi nữa.

Còn chức linh mục thừa tác, thoạt nhìn, không phải là sự dâng hiến hướng đến lòng mến hoàn thiện bản thân, nhưng là một thừa tác vụ khách quan hay một phẩm cấp (order) của Giáo hội. Ứng viên linh mục không đón nhận bí tích truyền chức để đạt tới sự thánh hóa cho bản thân, nhưng để chu toàn thừa tác vụ thánh hóa trong và cho cộng đoàn tín hữu. Tuy nhiên đối với Balthasar, nó đã bao hàm một sự dâng hiến bản thân vì không thể chu toàn thừa tác vụ linh mục nếu toàn thể con người của ngài không bị cuốn hút vào thừa tác vụ mà ngài thực hiện. Dựa trên những lời đọc trong nghi thức truyền chức linh mục phải hòa nhập cuộc sống mình với những lời ngài rao giảng, ngài phải bắt chước hiến tế Thánh Thể mà ngài dâng tiến, ngài phải yêu mến Đức Kitô nếu ngài muốn mến yêu đoàn chiên của Ngài. Do đó vấn đề khách quan của bí tích đòi hỏi con người và cuộc sống của người linh mục phải tương ứng với thực tại của một hữu thể mới mà ngài đón nhận trong ngày thụ phong. Người ta không ngạc nhiên khi cả thần học lẫn huấn quyền đều kêu gọi mọi linh mục hãy khao khát lối sống của các lời khuyên Phúc âm.

Nhà thần học Jean Galot khai sáng thêm những gì vừa đề cập trên đây: dấu ấn bí tích được khắc ghi vào tâm hồn người linh mục trong ngày thụ phong là dấu hiệu xuất hiện một hữu thể mới để diễn tả thực tại của hữu thể mới này. Cũng như Đức Kitô với sự thánh hiến của Đấng thiên sai đã tự mạc khải một lối sống triệt để không lệ thuộc vào những truyền thống được điều kiện hóa qua nền văn hóa hay lịch sử loài người. Do đó, Ngài đã đạt tới sự thành toàn viên mãn.

Ngày 1/7/2009, nhân dịp năm các linh mục, Đức Bênêđictô 16 khi giải thích về sứ vụ và ý nghĩa thừa tác viên linh mục, ngài phát biểu: sứ vụ của người linh mục phụ thuộc vào ý thức về thực tại bí tích của một hiện hữu mới (new existence) nơi ngài.

Thứ Hai, 7 tháng 6, 2021

NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHO VIỆC SỬ DỤNG CÁC CHUYÊN MÔN VỀ TÂM LÝ HỌC TRONG VIỆC TIẾP NHẬN VÀ ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH MỤC

Thời sự Thần học - Số 83, tháng 02/2019, tr. 166-190

 _Bộ Giáo dục Công giáo_ 

Tất cả những ai, do danh nghĩa khác nhau, có liên quan đến việc đào tạo, hãy cống hiến sự cộng tác xác tín của mình, trong sự tôn trọng thẩm quyền chuyên biệt của mỗi người, sao cho việc phân định và đồng hành ơn gọi của các ứng sinh được thích hợp để “chỉ đưa lên hàng linh mục những người được kêu gọi và sau khi đã được đào luyện thích đáng, nghĩa là với sự đáp trả có ý thức, tự do gắn bó và dấn thân trọn vẹn cho Đức Giêsu Kitô, Đấng kêu gọi đến sống thân mật với Người và chia sẻ sứ mệnh cứu rỗi của Người.

Thứ Sáu, 4 tháng 6, 2021

NHỮNG HƯỚNG DẪN CỦA HUẤN QUYỀN VỀ CHUYÊN MÔN CỦA TÂM LÝ HỌC VÀ SỬ DỤNG VÀO VIỆC CHUẨN BỊ CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI

Thời sự Thần học - Số 83, tháng 02/2019, tr. 140-165

 _TGM. Angelo Vincenzo Zani_ 

Tâm lý học ứng dụng liên quan chặt chẽ với đề tài ơn gọi và với trách nhiệm tế nhị của các nhà đào tạo. Họ phải phân định những dấu chỉ của “tiếng Chúa gọi” được tỏ lộ nơi những con người chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố văn hóa và xã hội tiêu cực ở nơi mà họ sinh sống. ... 
...Tuy nhiên, cần nhìn nhận rằng những cuộc khám phá và những kết quả trong lãnh vực thuần túy khoa học chưa đủ để cung cấp một cái nhìn toàn diện về nhân cách; thật vậy, các ngành này tự mình chưa giải quyết những câu hỏi căn bản liên quan đến ý nghĩa cuộc đời và ơn gọi của con người , là những điều cốt yếu thuộc bản chất tâm linh, nghĩa là thuộc tác động của ân sủng.

Thứ Ba, 1 tháng 6, 2021

NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ LÝ TƯỞNG CUỘC ĐỜI: SỰ ĐÓNG GÓP CỦA TÂM LÝ HỌC CHO CUỘC ĐÀO TẠO ƠN GỌI

Thời sự Thần học - Số 83, tháng 02/2019, tr. 118-139 

_Amedeo Cencini_ 

Tâm lý học giúp cho bạn trẻ trong giai đoạn đào tạo được sống thật hơn: thật với chính mình, thật với Thiên Chúa, thật với tha nhân, thật với kế hoạch của ơn gọi.

Thứ Ba, 7 tháng 7, 2020

XÃ HỘI HỌC CÁC DÒNG TU

Thời sự Thần học - số 74, tháng 11/2016, tr. 196-221

_Giuse Phan Tấn Thành, O.P._

Nhập đề: A. Từ ngữ. B. Phương pháp
I. Dòng tu xét như một xã hội
   A. Chu kỳ sinh sống của một dòng tu
   B. Những giằng co giữa tinh thần và định chế
II. Dòng tu trong xã hội
   A. Sự phát triển và suy tàn của các dòng tu: những đợt sóng
   B. Những mối tương tác:
      1. Dòng tu với xã hội: xa lánh trần thế ?
      2. Dòng tu với Giáo hội: giáo phái ? phản kháng ?
Kết luận: Xã hội học có ích gì để hiểu biết đời tu ?
   1. Mô tả.
   2. Giải thích: chức năng “tiềm ẩn” của các dòng tu. 

Thứ Ba, 17 tháng 3, 2020

THẦN HỌC ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN: NHỮNG GÓC ĐỘ TIẾP CẬN

Thời sự Thần học – Số 67 tháng 2/2015, tr. 163-189

_Mario Midali, S.D.B._[1]

Nói đến thần học đời sống thánh hiến (viết tắt: ĐSTH),[2] người ta thường nghĩ đến việc định nghĩa bản chất của sự thánh hiến (khác biệt với sự thánh hiến của bí tích rửa tội) và nội dung của ba lời khuyên Phúc Âm. Thực ra, thần học ĐSTH phong phú hơn nhiều; đúng ra phải nói đến “những” thần học về ĐSTH, bởi vì có nhiều lối tiếp cận khác nhau. Cha Mario Midali cho thấy rằng sự đa dạng này bắt nguồn từ chính quan điểm về ngôn ngữ thần học cũng như những điểm nhấn dựa theo kinh nghiệm lịch sử hoặc khung cảnh văn hóa. Bài viết gồm 5 mục chính:
I. Những khuôn mẫu làm thần học : 1) Khuôn mẫu kể chuyện. 2) Khuôn mẫu lịch sử. 3) Khuôn mẫu thần học tín lý. 4) Khuôn mẫu nữ quyền. 5) Khuôn mẫu thần học mục vụ.
II. Những hình thức khác nhau của ĐSTH: Tính đa dạng của các đặc sủng
III. Những khung cảnh văn hóa của các đại lục
IV. Những tư tưởng chủ chốt giải thích ĐSTH: 1) Những phạm trù Kinh Thánh; 2) Những phạm trù hữu thể; 3) Những phạm trù cảm nghiệm và lịch sử.
V. Những cái nhìn thần học tổng quan: 1) Khuynh hướng “cốt yếu” (essentialist) và khuynh hướng “hiện sinh” (existentialist). 2) Quan điểm tổng hợp của Tông huấn Vita consecrata (viết tắt: VC).

Thứ Tư, 5 tháng 2, 2020

TU LÀ MỘT CHỌN LỰA TỰ DO, TU LÀ CÕI PHÚC DÀNH CHO AI DÁM CHẾT

Thời sự Thần học – Số 66, tháng 11/2014, tr. 193-216.

  1. Tự do là gì để dám chọn lựa cõi phúc,
    dám dấn bước làm môn đệ thầy Giêsu ? 
  2. Tự do chọn lựa trở thành người môn đệ. 
  3. Tự do theo kinh nghiệm thánh Âu-Tinh. 
  4. Tự do trước mọi thách đố thời đại: Niềm vui.

_Maria Lê Thị Thanh Nga, Dòng Đức Bà_


“Tu là cõi phúc, tình là dây oan.” Ông bà cha mẹ vẫn khuyến khích con cháu đi tu để được phúc, phúc cho bản thân và phúc cho cả dòng họ gia đình. Riêng tôi vẫn thường vui vẻ chuyển đổi từ “phúc” thành từ “chết” mà biết chắc rằng mình vẫn không làm sai lạc ý nghĩa sâu xa của đời tu, của kinh nghiệm người xưa, và còn làm giảm bớt nét đối lập giữa đời tu và đời hôn nhân đã khiến cho nhiều bạn trẻ tưởng rằng đời tu là cứu cánh duy nhất, là chốn lánh nạn yên hàn, không còn bị ràng buộc bởi tục lụy thế gian. Thật vậy, “tu là cõi chết” và chính nhờ trải nghiệm cái chết từng ngày từng giờ này mà người tu sĩ cảm nhận hạnh phúc sâu xa của người đã tự do chọn lựa làm môn đệ Thầy Giêsu.

Thứ Hai, 30 tháng 12, 2019

CÁC TRINH NỮ TẬN HIẾN


Thời sự Thần học – Số 66, tháng 11/2014, tr. 134-165

Uỷ Ban Giáo sĩ và Tu sĩ, HĐGM Italia

Với việc ban hành nghi thức thánh hiến các trinh nữ ngày 31/5/1970, hàng ngũ các trinh nữ (Ordo virginum) đã được chính thức phục hồi trong Giáo hội. Hiện nay, tại Italia, có khoảng 500 trinh nữ được thánh hiến và một số tương đương đang trong giai đoạn đào tạo. Nhằm cung cấp cho các vị mục tử những tiêu chuẩn trong việc phân định và hướng dẫn ơn gọi này, Uỷ Ban đặc trách các Giáo sĩ vàTu sĩ của Hội đồng Giám mục Italia đã soạn thảo một “Ghi chú mục vụ” (Nota pastorale) được ban hành ngày 25/3/2014. Thiết tưởng tài liệu tham chiếu này cũng hữu ích cho các Giám mục ở những quốc gia khác.

Văn kiện gồm ba chương, với 24 số.

Nhập Đề
Chương I. Ơn gọi của hàng ngũ các trinh nữ (ordo virginum)
  • 1. Một ơn gọi đặc biệt
  • 2. Sự khôi phục hàng ngũ các trinh nữ
  • 3. Nội dung của “quyết tâm”
  • 4. Những hình ảnh của một hành trình tâm linh
  • 5. Trách nhịêm của Giám mục giáo phận
  • 6. Vị Đại diện đặc trách hàng ngũ các trinh nữ
Chương II: Phân định và huấn luyện
  • 7. Những điều kiện để thâu nhận các ứng sinh vào việc thánh hiến
  • 8. Việc phân định và huấn luyện
  • 9. Giai đoạn chuẩn bị
  • 10. Việc huấn luyện khởi đầu
  • 11. Việc phân định kết thúc
  • 12. Cử hành nghi thức thánh hiến
  • 13. Việc huấn luyện thường xuyên
Chương III: Đời sống và chứng tá của các trinh nữ thánh hiến
  • 14. Bản luật sống cá nhân
  • 15. Linh hướng
  • 16. Cầu nguyện
  • 17. Giữa lòng Hội thánh
  • 18. Quyết tâm hiệp thông giữa những người tận hiến
  • 19. Vì sự sống của thế giới
  • 20. Những hiệp hội và cộng đoàn các trinh nữ tận hiến
  • 21. Di chuyển sang giáo phận khác
  • 22. Việc làm và cấp dưỡng
  • 23. Việc rời bỏ hàng ngũ trinh nữ
  • 24. Nhóm liên kết ở cấp quốc gia và ở mỗi miền
Kết luận

Chú thích của người dịch: Ordo virginum được dịch là “Hàng ngũ các trinh nữ” (viết tắt HNTN). Consecratio virginum: sự “thánh hiến các trinh nữ”. Virgines consecratae: các “trinh nữ tận hiến” (viết tắt: TNTH)
___________


Nhập đề


Lòng biết ơn Thiên Chúa vì những hồng ân cũng như trách nhiệm phân định các đặc sủng nhằm xây dựng cộng đoàn Kitô hữu đòi hỏi các giám mục phải chú ý quan sát tất cả mọi ơn gọi. Trong số ấy, sự trinh khiết tận hiến, dưới nhiều hình thức đa dạng, là một hồng ân cho nhiều phụ nữ nên thánh ngay từ buổi đầu của lịch sử Giáo hội và là một dấu hiệu về chỗ đứng ưu tiên của Vương quốc Thiên Chúa đối với Hội thánh và thế giới.

Hàng ngũ các trinh nữ tận hiến (HNTN), tuy có nguồn gốc lâu đời nhưng sau công đồng Vaticanô II đã phát triển với nhiều sắc thái độc đáo. Những phụ nữ đã nhìn thấy ơn gọi của mình trong nếp sống đặc thù này, cũng như những giám mục đã đón nhận và cổ võ đặc sủng ấy, đều cảm thấy cần phải có những đường hướng và chỉ dẫn để soạn thảo những tiêu chuẩn chung và chia sẻ những kinh nghiệm trong việc phân định, huấn luyện và chăm sóc mục vụ cho những phụ nữ tận hiến trong HNTN. Vì thế, Ủy ban các giám mục đặc trách hàng giáo sĩ và tu sĩ đã muốn góp phần vào công cuộc ấy qua bản Ghi chú mục vụ này.

Lịch sử của một đặc sủng và những hoa trái thánh thiện chỉ có thể được nhận ra trải qua một thời gian lâu dài và trong sự ngoan ngoãn tuân theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. Những chỉ dẫn mục vụ nhắm cung cấp những điểm tham chiếu trong việc đề ra những đường hướng thống nhất trong các giáo phận Italia, nhằm thực thi các quy luật hiện hành của Giáo hội.

Bản Ghi chú này cũng muốn phát biểu một lời khích lệ và một niềm trông mong.

Lời khích lệ dành cho các trinh nữ tận hiến (viết tắt TNTH): nhờ kiên trì trong ơn gọi, ước gì họ chứng tỏ sự phong phú của đặc sủng, tầm ảnh hưởng đến sứ mạng của Hội thánh, sự đóng góp vào các cộng đoàn Kitô hữu mà họ làm phần tử.

Niềm trông mong là với dòng thời gian, nhờ sự phát triển của HNTN trong Hội thánh Italia, đời sống thánh thiện của họ cũng như khả năng suy tư và truyền đạt các hoa trái của mình, hy vọng rằng những chặng đường huấn luyện, cách thức hiện diện trong Giáo hội, các hình thức sứ vụ, những nét linh đạo được chín chắn hơn.

Rôma, ngày 25 tháng 3 năm 2014. Lễ Truyền tin cho Đức Mẹ

+ Francesco Lambiasi, giám mục Rimini,
Chủ tịch uỷ ban các giám mục đặc trách hàng giáo sĩ và tu sĩ.

Chương I : Ơn gọi của Hàng ngũ các Trinh nữ


1. Một ơn gọi đặc biệt


Thánh Linh luôn làm cho Hội thánh được sinh động và thánh thiện nhờ muôn vàn ân điển và các ơn gọi tận hiến, để xây dựng dân Chúa và thúc đẩy việc loan bao Tin Mừng cho muôn dân.

Trong số những ân điển của Thánh Linh ban cho Hội thánh, cần phải kể đến Hàng ngũ các Trinh nữ: “Thật là có lý do để vui mừng và hy vọng khi thấy ở thời đại chúng ta lại xuất hiện hàng ngũ cố cựu của các trinh nữ, với những vết tích được ghi lại trong các cộng đoàn Kitô hữu kể từ thời các tông đồ. Các trinh nữ được giám mục giáo phận thánh hiến, họ kết nối một quan hệ mật thiết với Giáo hội. Họ cam kết phục vụ Giáo hội, tuy vẫn sống ngoài đời. Dù ở một mình hoặc kết đoàn với nhau, họ trở thành một hình ảnh cánh chung của Hiền thê thiên giới và của đời sống mai hậu, thời buổi cuối cùng khi Giáo hội sẽ sống trọn tình yêu dành cho Đức Kitô là Hôn phu của mình.”[1]

Ơn gọi vào HNTN là một nếp sống đi theo sát Chúa Kitô, cách riêng qua việc cam kết giữ đức trinh khiết như là dấu hiệu của Giáo hội Hiền thê sẵn sàng đón tiếp Hôn phu. Ơn gọi này được thể hiện trong giáo phận, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Giám mục, qua lối sống ở giữa thực tại trần thế.[2]

Tìm kiếm Thiên Chúa như là điều thiện tuyệt đối và không thể thay thế[3]; mở rộng tâm hồn đến những nhu cầu và nỗi khổ của anh chị em đồng loại[4] mà không loại trừ ai; sẵn sàng phục vụ Giáo hội với một tâm tình âu yếm và gắn bó; kiên trì vận dụng tất cả mọi chiều kích của con người – linh hồn, trái tim và cả thân xác – vào việc tỉnh thức trông chờ Hôn Phu duy nhất và Chủ tể mạng sống của mình[5]: tất cả những điều ấy, nhờ ân sủng, có thể thực hiện được và có thể làm tràn đầy cuộc sống. “Đức khiết tịnh vì Nước Trời (Mt 19,12) giải thoát trái tim con người cách lạ lùng, và có khả năng đốt thêm ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa và đồng loại.”[6]

Những sách phụng vụ cổ điển nhất cho thấy rằng nghi thức thánh hiến các trinh nữ đã sử dụng những ngôn ngữ và dấu hiệu của việc cử hành hôn nhân. Điều này cho thấy rằng trong Kitô giáo, hôn nhân và trinh khiết đều biểu lộ và thể hiện giao ước hôn nhân giữa Thiên Chúa và dân của Ngài, tuy với những cách thức khác biệt và bổ túc hỗ tương.

Thật vậy, sự so sánh với tình yêu phu phụ, được các ngôn sứ sử dụng trong Cựu ước và được lặp lại trong Tân ước để diễn tả mối tương quan giữa Đức Kitô và Giáo hội, nói lên ơn gọi của toàn thể nhân loại là hướng tới sự hiệp thông trọn vẹn, vĩnh cửu với Chúa Cha, nhờ tác động của Thánh Linh, đã được hoàn thành nhờ cuộc sống, thánh giá và phục sinh của Chúa Con.

Sự thánh hiến các trinh nữ diễn ra qua việc ứng viên tuyên bố quyết tâm (propositum)[7] và lời nguyện thánh hiến của Giám mục giáo phận dựa theo cách phụng được chuẩn y.[8]

2. Việc khôi phục hàng ngũ các trinh nữ


Ngày 31 tháng 5 năm 1970, Bộ Phụng vụ, do sự uỷ nhiệm đặc biệt của đức giáo hoàng Phaolô VI, đã ban hành Nghi thức thánh hiến các trinh nữ tuân theo chỉ thị của công đồng Vaticanô II.[9]

Bộ Giáo luật năm 1983 đã nhìn nhận các trinh nữ tận hiến như là một hình thức của đời sống thánh hiến, và mô tả vắn tắt như sau: “HNTN cũng được đồng hóa với các hình thức thánh hiến, tức là những người tuyên bố quyết tâm đi theo sát Đức Kitô, được giám mục giáo phận thánh hiến cho Thiên Chúa theo nghi thức được chuẩn nhận, và được kết duyên huyền nhiệm với Đức Kitô Con Thiên Chúa, họ hiến thân phục vụ Hội thánh.”[10]

Các TNTH được Thánh Linh dẫn dắt để bắt chước Chúa Kitô, cách riêng là điều kiện trinh khiết của Người. Họ sống thân phận lữ hành trên đời này, chia sẽ những vui mừng và hy vọng, những đau khổ và âu lo của con người thời đại, nhưng vẫn không ngừng hướng đến sự thông hiệp sung mãn với Đức Kitô.

Dấu hiệu của sự trinh khiết tận hiến làm nên nguyên lý thống nhất của cuộc đời họ, bởi vì nó biểu lộ đặc trưng của họ là trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thiết lập dây tình yêu vĩnh viễn và độc hữu với Chúa Giêsu, như là điều kiện đặc thù để dấn thân phục vụ Giáo hội.

HNTN gồm bởi các những phụ nữ cùng chia sẻ sự tận hiến được mô tả trong Bộ Giáo luật, điều 604: vì thế trong Giáo hội chỉ có một HNTN, hiện diện ở nhiều giáo phận khác nhau. HNTN không có tư cách pháp nhân theo giáo luật.[11]

Khác với các Dòng tu, các trinh nữ không buộc sống chung, không có đặc sủng của một vị sáng lập, nhưng họ sống đời tận hiến trong giáo phận dựa theo một bản luật sống cá nhân, và được giám mục giáo phận chỉ định công tác phục vụ Giáo hội.

3. Nội dung của “quyết tâm”


“Quyết tâm” là mối ràng buộc thánh thiêng nhờ đó các TNTH cam kết sống trinh khiết để đi theo Đức Kitô. Nội dung của quyết tâm được diễn tả qua những lời “đi theo sát Đức Kitô, ... , và được kết duyên huyền nhiệm với Đức Kitô Con Thiên Chúa, để phục vụ Giáo hội.”[12] Qua những lời thẩm vấn của giám mục,[13] cũng như qua công thức bày tỏ ý định giữ khiết tịnh trọn hảo vì Nước trời,[14] ơn gọi của các trinh nữ được mô tả như là đi theo Đức Kitô khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục, bằng việc bắt chước triệt để lối sống của Người.[15]

Bản tính của nghi thức thánh hiến nêu bật tính cách vĩnh viễn của sự cam kết. Các TNTH thực hiện một nếp sống họa theo Tin Mừng, bởi vì họ hiến dâng toàn thân cho Đức Kitô, họ muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Người và phục vụ Giáo hội.

Đặc trưng của hình thức tận hiến của HNTN là sự cam kết sống đức tin và Tin Mừng cách triệt để, trong những điều kiện thông thường của cuộc đời.

Vì thế các TNTH không mặc áo dòng như dấu hiệu, cũng không thuộc về một cộng đoàn Dòng tu, nhưng họ cam kết làm chứng cho sự tận hiến của mình như để nhắc nhở các giá trị tuyệt đối của Nước Trời, ngay cả bằng việc sẵn sàng đảm nhận các công tác của Giáo hội để xây dựng cộng đoàn Kitô hữu.

Ngoài ra, sự tích cực tham gia vào đời sống văn hóa và dân sự cũng cần được xem như là một hình thức diễn tả ơn gọi TNTH, nhờ đó họ góp phần vào việc canh tân môi trường xã hội mà mình đang sinh sống, dựa theo tinh thần của Tin Mừng.

Vì thế, theo sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo, “HNTN đặt người phụ nữ sống giữa trần gian ... trong cầu nguyện, thống hối, phục vụ anh chị em và công tác tông đồ, tuỳ theo tình trạng và những đặc sủng được ban cho mỗi người.”[16]

4. Những hình ảnh của một hành trình tâm linh


Những nét đặc trưng của linh đạo các TNTH được xác định bởi việc đón nhận hồng ân Thánh Linh một cách tự do và cá nhân. Một cách cụ thể và chính xác, những nét đó là: chứng tá cuộc sống thánh thiện; chia sẻ chính những tâm tình của Đức Kitô và đời sống trong Thánh Linh cùng với các chị em tận hiến khác; đào sâu Huấn quyền của các mục tử nhằm nêu cao vẻ đẹp và sức mạnh quyến rũ của sự tận hiến này.

Những hình ảnh mà truyền thống đã sử dụng để phác hoạ chân dung tinh thần của các TNTH thì được thể hiện nơi những người nữ được thánh hiến trong HNTN. Nghi thức thánh hiến đã trình bày các trinh nữ hoạ theo khuôn mẫu của Hội thánh là hôn thê, trinh nữ và mẹ, đã giới thiệu họ như là ái nữ của Hội thánh và như người chị em liên kết với mọi người bằng mối dây huynh đệ; đã trưng bày Đức Trinh nữ Maria như là khuôn mẫu tiên khởi của đức trinh khiết tận hiến.

Hình ảnh Hôn thê tượng trưng cho kinh nghiệm của sự kết hiệp thân mật và bất khả ly với Đức Kitô. “Người nữ, là kẻ “ngay từ thuở ban đầu” đã được ơn gọi yêu thương và được yêu, nơi ơn gọi sống trinh khiết tận hiến họ gặp thấy Đức Kitô là Đấng Cứu chuộc đã “yêu thương cho đến cùng” bằng việc trao hiến tất cả bản thân, và người nữ đáp lại sự trao ban ấy bằng việc trao ban chân thành tất cả đời mình. Như thế, người nữ hiến mình cho Hôn phu thiên linh, và qua sự trao hiến bản thân này họ hướng đến sự kết hiệp thiêng liêng: nhờ tác động của Thánh Linh, người nữ trở nên “một thần khí” với Đức Kitô Hôn phu (x. 1Cr 6,7). Sự trinh khiết không chỉ giới hạn vào việc nói “không” với việc kết hợp vợ chồng, nhưng còn hàm chứa một lời “có” của sự kết duyên sâu xa.”[17] Sự kết hiệp giữa Hôn thê với Hôn phu, mầu nhiệm tình yêu cao cả giữa Đức Kitô và Hội thánh, được diễn đạt nơi sự thánh hiến các trinh nữ, là những người sống hiệp thông với Chúa với con tim trung tín và không chia sẻ, và trông mong sự kiện toàn qua việc chờ đợi Người đến. Dựa trên giáo huấn và thực hành của Hội thánh suốt hai ngàn năm qua, các phụ nữ tận hiến trong HNTN ý thức giá trị của sự toàn vẹn thể lý.

Hình ảnh ái nữ gợi lên linh đạo tri ân mà các trinh nữ cảm nghiệm tình mẫu tử của Hội thánh là kẻ đã sinh ra họ trong bí tích rửa tội và đã kêu gọi họ mang lấy hình ảnh của mình. Với tâm tình con thảo, các trinh nữ gắn bó với Hội thánh là mẹ hiền ân cần săn sóc họ. Từ Hội thánh, họ lãnh nhận lương thực của lời và thân thể Đức Kitô, tiếp nhận tình thương tha thứ, chấp nhận sự hướng dẫn an toàn để có thể trung thành đi theo vị Hôn phu cách quảng đại, hấp thụ đức bác ái để có thể yêu thương người nghèo và hoạt động cho công ích của Dân Chúa. Các trinh nữ tận hiến nhìn nhận mình là những ái nữ của Hội thánh qua mối dây ràng buộc đặc biệt với giáo phận và qua sự đón nhận ân cần của Giám mục.

Hình ảnh người chị em nhắc nhớ lời cam kết của các trinh nữ sống chia sẻ trong Giáo hội và xã hội, bằng việc dấn thân để tạo ra những mối dây tương quan nhân bản và huynh đệ, bằng việc nỗ lực giúp đỡ lẫn nhau, xây dựng sự hiệp thông, phục vụ chân thành, cụ thể và vô vị lợi. Họ tỏ ra nhạy cảm và quan tâm tìm hiểu, an ủi, nâng đỡ những đau khổ của những người mà họ gặp gỡ, tiếp đón mọi người như là anh chị em. Thực vậy, mối tình trọn vẹn và độc hữu dành cho Đức Kitô không cắt đứt tình yêu dành cho tha nhân: bởi vì chính vì họ thuộc trọn về Người cho nên họ cũng nuôi dưỡng những tâm tình của Người dành cho tất cả mọi người.

Hình ảnh người hiền mẫu gợi lên tính phong nhiêu của việc tận hiến mà ta gặp thấy một khuôn mẫu rạng ngời nơi Đức Maria.[18] Qua sự đón nhận hôn thê của người Trinh nữ và cũng là Mẹ, “Giáo hội học biết cách làm sinh sôi nảy nở đời sống thần linh nhờ tình yêu trinh khiết toàn vẹn. Tình yêu trinh khiết này mang lại sự phong nhiêu góp phần vào việc sinh sản và tăng trưởng đời sống thần linh trong các tâm hồn ... Như thế Hội thánh biểu lộ tình mẹ vừa qua việc thông chuyển tác động mà Chúa đã uỷ thác cho thánh Phêrô, vừa qua sự đón tiếp hồng ân Thiên Chúa một cách có trách nhiệm, tiêu biểu nơi Mẹ Maria.”[19]

Nơi Đức Maria, trinh nữ đầy ân sủng, Thân mẫu của Thiên Chúa và khuôn mẫu hoàn hảo của Hội thánh, các TNTH nhận ra người luôn sẵn sàng thực hiện chương trình của Thiên Chúa. Khi chiêm ngưỡng mầu nhiệm và bắt chước những tâm tình nội tại của người, các trinh nữ tiếp đón người vào hành trình của mình như một người chị và người mẹ.

5. Trách nhiệm của Giám mục giáo phận


Mối quan tâm mục tử dành cho các TNTH và cho những phụ nữ ước muốn được tận hiến vào HNTN nằm trong những tác vụ thông thường của Giám mục giáo phận. Trong cương vị là mục tử nhân lành của giáo hội được uỷ thác cho mình, Giám mục được mời gọi hãy trợ giúp các tín hữu trong việc thực hiện ơn gọi nên thánh, bằng sự khôn ngoan phân định để nhận biết mọi đặc sủng và ơn gọi[20] cũng như để giúp cho chúng phát triển ngõ hầu mang lại ích lợi cho mọi người trong sự hài hoà của đức mến.

Nhiệm vụ của Giám mục là nhìn nhận đặc sủng đức trinh khiết; chấp nhận những người xem ra xứng đáng được thánh hiến vào HNTN; chăm lo việc huấn luyện họ; phân định và cử hành lễ thánh hiến để giới thiệu họ cho cộng đoàn như dấu hiểu của Hội thánh là Hôn thê của Đức Kitô; đồng hành với các trinh nữ trong con đường nên thánh; dạy cho họ “lòng kính sợ Thiên Chúa.”[21]

6. Vị Đại diện giám mục đặc trách hàng ngũ các trinh nữ


Giám mục giáo phận có thể đặt một linh mục làm Đại diện cho mình để phụ trách hàng ngũ các trinh nữ, và ấn định quyền hạn của vị ấy. Do chức vụ này, Đại diện giám mục không thể thi hành tác vụ làm linh hướng. Để chu toàn trách vụ làm người cộng tác của Giám mục, Đại diện có bổn phận phải hiểu biết từng ứng viên và những người đã được thánh hiến và theo dõi hành trình của họ. Vị Đại diện cộng tác với Giám mục – và chịu trách nhiệm trực tiếp với ngài, ngay cả khi trong giáo phận có vị Đại diện đặc trách đời sống thánh hiến – trong việc thâu thập những tin tức cần thiết cho việc phân định để thâu nhận vào đời tận hiến, kiểm chứng các điều kiện đã hội đủ; hướng dẫn việc soạn thảo những chặng huấn luyện trước và sau khi được thánh hiến, kể cả bằng việc tổ chức những cuộc hội chung giữa những người chuẩn bị thánh hiến hoặc đã gia nhập hàng ngũ thánh hiến.

Trong cuộc đối thoại với những trinh nữ tận hiến và những người đang trong tiến trình huấn luỵên, vị Đại diện thay mặt Giám mục và kiểm chứng rằng mỗi ứng sinh hoặc người đã tận hiến đều được huấn luyện và cam kết sống chiều kích giáo hội và giáo phận của HNTN.

Vị Đại diện hãy ân cần giúp cho mỗi người được phát huy những ân huệ đã lãnh nhận, và cổ võ sự hiệp thông giữa họ với nhau, bằng cách khuyến khích sự chấp nhận những sự khác biệt chính đáng, và tinh thần trách nhiệm liên đới.

Chương II : Sự phân định và huấn luyện


7. Những điều kiện để thâu nhận các ứng sinh vào việc thánh hiến


Các quy tắc dẫn nhập vào Nghi thức thánh hiến đã trao cho Giám mục trách nhiệm cuối cùng của việc thâu nhận vào HNTN.

Trước khi thánh hiến, Giám mục hoặc Đại diện cần kiểm chứng xem những người có ý hướng gia nhập nếp sống này đã lãnh bí tích rửa tội và thêm sức, chưa kết hôn cũng như không mắc tai tiếng trái nghịch đức khiết tịnh, và tự lập về kinh tế. Do đó, cần thu thập chứng thư rửa tội và thêm sức, chứng thư tình trạng thong dong, giấy chứng nhận của cha xứ và của các linh mục khác về thanh danh của ứng sinh đối với cộng đồng Dân Chúa.

Qua việc thu thập tất cả những thông tin, kể cả bằng việc gặp gỡ trực tiếp các đương sự, Giám mục có nhiệm vụ phân định, hoặc đích thân hoặc nhờ Đại diện, tính chân thực của ơn gọi thánh hiến và lo liệu cho ứng sinh được chuẩn bị tương xứng.

Cần phải bảo đảm rằng nhờ tuổi tác và sự trưởng thành về nhân bản và tâm linh, các ứng sinh có khả năng kiên vững suốt đời trong lời quyết tâm. Vì thế tuy vẫn nhận rằng sự thánh hiến có thể thực hiện lúc tuổi thanh xuân như dấu chỉ của việc giao duyên, nhưng sự khôn ngoan khuyên nên ấn định tuổi tối thiểu ở khoảng 30-35 tuổi.

Giám mục nên cân nhắc kỹ lưỡng có nên thâu nhận vào giáo phận những người đến từ những hình thức tận hiến khác. Mặc dù vẫn tuân giữ điều nói ở số 11 dưới đây, trong trường hợp một ứng sinh đã rời bỏ một Hội dòng tận hiến hoặc Tu đoàn tông đồ, Giám mục cần thu thập những thông tin cần thiết ngay cả từ Hội dòng hoặc Tu đoàn mà họ rời bỏ ngõ hầu sự phân định được chín chắn. Nếu đương sự đã bị trục xuất, thì càng phải cân nhắc kỹ lưỡng hơn nữa.

Để bảo đảm sự tự do trong lãnh vực bày tỏ lương tâm, Giám mục giáo phận không được phép hỏi ý kiến vị linh hướng của ứng viên.[22]

8. Phân định và huấn luyện


Sự phân định tính chân thực của ơn gọi gia nhập HNTN đòi hỏi phải kiểm chứng những tiêu chuẩn Phúc âm làm động lực cho việc chọn lựa nếp sống tận hiến này.

Ơn gọi sống đời trinh khiết tận hiến như là đi theo Đức Kitô và dấu hiệu của Hội thánh Hôn thê cần được nhận thấy qua những nét Phúc âm như là sự phó thác không dè giữ cho tình yêu Chúa Cha, sự kết hiệp sâu xa với Đức Kitô, lòng yêu thương khiêm tốn dẫn đến việc phục vụ Giáo hội và làm chứng tá cho đức tin – cậy – mến trong khung cảnh của cuộc sống thường nhật. Vì thế, dựa theo bản tính của việc trở thành “dấu chỉ”, hành trình huấn luyện để gia nhập HNTN phải là một con đường hoán cải, nghĩa là thanh luyện đời sống, chiếu sáng tâm trí, kết hiệp với Đức Kitô Hôn phu, nghèo khó và tôi tớ.[23]

Sự thánh hiến các trinh nữ mang tính vĩnh viễn và không có những cam kết tạm thời trước đó; vì vậy cần có một thời gian huấn luyện khởi đầu để kiểm chứng sự vững chắc của lòng quyết tâm sống đời tận hiến, về lòng trung thành trong việc phục vụ và thăng tiến con người, về khả năng sống tương quan chín chắn và bình thản, về sự sẵn sàng hoà nhập vào cộng đồng Giáo hội và xã hội.

Việc huấn luyện các TNTH là một tiến trình năng động và tiệm tiến, được phân ra thành từng giai đoạn móc nối với nhau cách hữu cơ, nhằm đồng hành và định hướng các ứng sinh từ lúc phân định ơn gọi tận hiến cho đến lúc được thánh hiến và tiếp tục trong hành trình huấn luỵên thường xuyên. Đây là một lộ trình toàn diện và thống nhất chi phối toàn thể bản thân dưới nhiều khía cạnh – tình cảm, trí tuệ, ý chí, tâm linh – nhằm đến nếp sống nhất quán, là một điều cần thiết để đạt đến sự trưởng thành nhân bản và tâm linh. Hành trình này cũng nhằm hiểu biết sâu xa về đặc sủng của các TNTH và đảm nhận những trách nhiệm liên hệ.

Chủ chốt của cuộc huấn luyện là Chúa Thánh Linh: Ngài hướng dẫn những người sẵn sàng để tiến đến sự đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, xác tín về ơn gọi của mình, dốc quyết tận hiến suốt đời. Thánh Linh tác động trong Hội thánh, và Hội thánh cung cấp những lộ trình huấn luyện cân xứng. Những người muốn bước vào HNTN cần nhất trí với Giám mục hoặc Đại diện về những thể thức đồng hành cá nhân.

Việc linh hướng là một phương tiện hỗ trợ không thể bỏ qua trong việc huấn luyện và phân định để hướng đến sự tận hiến vĩnh viễn, và đòi hỏi một tương quan liên tục, tín nhiệm và cởi mở giữa ứng sinh với một người có tinh thần đức tin sâu xa và từng trải về tâm linh.

Sự chuyển tiếp từ chặng này sang chặng khác của lộ trình cần lưu tâm đến hoàn cảnh cụ thể của mỗi người.

Những chặng của lộ trình huấn luyện quen được chia làm ba: giai đoạn chuẩn bị, sự huấn luyện khởi đầu, sự huấn luyện thường xuyên.

9. Giai đoạn chuẩn bị


Mục tiêu của giai đoạn chuẩn bị là để phân định những dấu hiệu tích cực cho thấy ý hướng muốn được thánh hiến vào HNTN.

Để huấn luyện và kiểm chứng sự trưởng thành nhân bản, cần quan tâm đến những tiêu chuẩn sau đây: hiểu biết rõ rệt về bản thân, ý thức khách quan về những năng khiếu và khuyết điểm của mình; thanh thoát khỏi những hình thức lệ thuộc hoặc chiếm hữu kèm theo khả năng thiết lập những tương giao lành mạnh, bình thản và trao hiến; tình cảm đã quen với tình yêu dâng hiến với một trái tim không chia sẻ, có khả năng hội nhập tính dục vào căn tính cá nhân, chín chắn trong việc hướng nữ tính sống theo Thánh Linh các hình ảnh của trinh nữ, chị em, hôn thê, mẹ; khả năng hoán chuyển những đau khổ và thất bại thành những bước tiến của kinh nghiệm làm người; trung thành giữ lời đã hứa; sử dụng có trách nhiệm các tài sản, các phương tiện truyền thông xã hội và thời giờ tự do. Trong những dụng cụ để kiểm chứng sự phân định, có thể kể đến các hình thức lượng định nhân cách và đồng hành tâm lý.

Trong lãnh vực đời sống tâm linh, cần phải kiểm tra và củng cố lòng yêu mến Chúa Giêsu như là ngọn lửa cần được hun nóng ngõ hầu sưởi ấm và soi sáng ý nghĩa cuộc đời; cảm thấy mình thuộc về Giáo hội địa phương và sẵn sàng tuân theo những chỉ thị của Giám mục; trung thành với kỷ luật thiêng liêng, về thời khắc cầu nguyện; chuyên cần theo đuổi con đường thống hối, khắc khổ và linh hướng.

Đối với việc thánh hiến trong HNTN, cần phải kiểm tra xem ứng sinh đã ý thức như thế nào về đặc sủng ấy, khả năng đáp ứng những yêu sách của ơn gọi đặc thù này, và uốn nắn cuộc đời chiếu theo đó; việc tham gia tích cực vào chương trình đào tạo của hàng ngũ; nhạy bén với những giá trị của chiêm niệm và hiệp thông, trước hết là với giám mục và các chị em thuộc hàng ngũ, được chứng tỏ qua khả năng thiết lập những tương quan kính trọng, thân hữu và huynh đệ.

Giai đoạn này, thông thường kéo dài tối thiểu là một năm, kết thúc với việc Giám mục phân định thấy ứng sinh có những động lực chính đáng và khả năng khách quan để gia nhập HNTN. Đến đây, ứng sinh có thể làm đơn xin được thâu nhận vào giai đoạn huấn luyện khởi đầu, theo thủ tục được áp dụng trong giáo phận.

10. Huấn luyện khởi đầu


Khuynh hướng đời sống tận hiến được biểu lộ qua nếp sống thường nhật trong các cộng đồng Kitô hữu, được củng cố nhờ việc tham gia vào chương trình huấn luyện ơn gọi của giáo phận, và được chín muồi nhờ việc lắng nghe tiếng nói của Thánh Linh trong mọi cảnh huống.

Việc huấn luyện khởi đầu bao gồm hai chặng liên hệ với nhau: huấn luyện về đời sống thánh hiến, và huấn luyện về hình thức đặc thù của HNTN.

Chặng thứ nhất nhằm huấn luyện về đời sống tận hiến cho Chúa. Trong những buổi gặp gỡ, ứng sinh sẽ học hỏi những nguyên tắc về đời sống thánh hiến dựa trên những văn bản nền tảng: Kinh thánh, truyền thống các giáo phụ, suy tư thần học, cách riêng dựa trên Công đồng Vaticanô II và những văn kiện gần đây của Huấn quyền.

Đây cũng là thời kỳ đào sâu hơn sự hiểu biết về bản thân và phối kết cuộc đời của mình với những tài năng và các nhân đức nhân bản và Kitô giáo cần được vun trồng.

Việc tiếp xúc với một vị linh hướng là điều rất quan trọng: những cuộc gặp gỡ thường xuyên, cuộc đối thoại chân thành, sự ngoan ngoãn khôn ngoan và quảng đại, tất cả sẽ giúp cho đương sự đọc lại cuộc đời của mình để khám phá những dấu hiệu của ơn gọi và kết nạp với những điều đã được học hỏi thêm.

Trong thời gian này, ứng sinh sống đời tâm linh sâu đậm hơn, ngõ hầu nhận định kế hoạch của Thiên Chúa và tiếng gọi của Ngài. Đời sống cầu nguyện mang hình thức đều đặn và bền bỉ hơn qua việc tham dự (nếu được mỗi ngày) Thánh Lễ và các giờ Kinh Sáng và Kinh Chiều.

Ngoài ra, ứng viên cũng nên năng gặp gỡ Giám mục hay vị Đại diện; liên kết chặt chẽ với cộng đoàn giáo hội, chẳng hạn qua việc đảm nhận một công tác mục vụ; sống chứng tá đức tin trong môi trường nghề nghiệp hoặc khung cảnh xã hội dân sự; tham dự những biến cố quan trọng của giáo phận.

Cũng cần quan tâm đến việc đào tạo thần học cho ứng sinh, qua việc đăng ký vào các trường Cao đẳng thần học; dù sao đi nữa, phải lo liệu để ứng sinh được học Thánh Kinh, giáo phụ, thần học, phụng vụ, luân lý, thần học tâm linh.

Chặng thứ nhất của hành trình huấn luyện, kéo dài ít là hai hoặc ba năm, kết thúc với việc ứng sinh làm đơn xin tiếp tục con đường dẫn đến sự thánh hiến trong HNTN.

Mục tiêu của chặng thứ hai là giúp ứng sinh hiểu thấu đáo những yếu tố đặc trưng của sự thánh hiến trong HNTN. Nội dung cần được hấp thụ là những đặc trưng của đặc sủng này cũng như sự hiểu biết về giáo phận. Ứng sinh có nghĩa vụ tham dự các buổi tổ chức huấn luyện về phạm vi này cũng như những buổi chia sẻ huynh đệ và thông truyền đức tin. Trong giai đoạn này, ứng sinh hoàn tất việc huấn luyện nhân bản, tâm linh và thần học; tiếp tục tham gia vào công tác mục vụ đã được thỏa thuận với Giám mục hay Đại diện; sẵn sàng tiếp tục những chặng kế tiếp của việc huấn luỵên thường xuyên. Khi gần đến ngày thánh hiến, ứng xin phải chuẩn bị việc dâng mình bằng cách dành thời gian thinh lặng và cầu nguyện, dựa theo hướng dẫn của nghi thức thánh hiến, cũng như tham dự những buổi thảo luận, đào sâu, kiểm chứng.

Vào cuối chặng huấn luyện này, ứng sinh được yêu cầu soạn thảo một đúc kết về hành trình đã trải nghiệm qua việc bằng cách viết ra bản luật sống cho bản thân mình.[24]

Chặng thứ hai của việc huấn luyện khởi đầu thường kéo dài một hoặc hai năm.

11. Việc phân định kết thúc


Kết thúc hành trình huấn luyện, sau khi đã được ý kiến thuận của linh hướng, ứng sinh sinh viết đơn xin Giám mục chấp nhận vào việc thánh hiến.

Việc phân định kết thúc thuộc về Giám mục. Ngài sẽ hỏi ý kiến của vị Đại diện, thâu thập các thông tin cần thiết về phía những người đã đồng hành với ứng sinh, ngoại trừ vị linh hướng.

Sau khi đã đắn đo kỹ lưỡng, Giám mục sẽ quyết định chấp nhận cho ứng sinh được thánh hiến, và xác định thời gian, thể thức và nơi cử hành.

12. Việc cử hành nghi thức thánh hiến


Tác viên thông thường của việc thánh hiến HNTN là Giám mục giáo phận.[25] Theo quy tắc, ngài chủ sự nghi thức, nên được cử hành tại nhà thờ chính toà và vào thời gian được chỉ dẫn theo sách Nghi thức.[26]

Cần lo liệu để cho cộng đồng tham dự lễ thánh hiến vào HNTN: đây cũng là cơ hội thuận tiện để giới thiệu và quý trọng ơn gọi đặc biệt này.

Sau lễ thánh hiến, cần phải ghi vào một sổ riêng dành cho HNTN, lưu giữ ở Toà Giám mục. Cũng nên thông báo cho cha sở liên hệ để ghi chú vào sổ Rửa tội.

13. Huấn luyện thường xuyên


Việc huấn luyện thường xuyên là một yêu sách nội tại của đời sống thánh hiến: nó đáp ứng nhu cầu củng cố sự huấn luyện đã đạt được cũng như nghĩa vụ phải nuôi dưỡng tình yêu đối với Chúa Kitô và rèn luyện việc phục vụ Giáo hội.

Tính năng động của đức tin và chính đời sống con người, sự biến đổi các điều kiện văn hóa và xã hội, những thúc bách của việc loan báo Tin Mừng cách mới mẻ: đó là những động lực cho việc quan tâm đến việc huấn luyện thường xuyên, mà không có người tín hữu nào và đặc biệt là người tận hiến có thể miễn chuẩn. Như vậy, các TNTH sẽ hướng đến sự trưởng thành cá nhân, hoà nhập tất cả mọi chiều kích – tâm linh, nhân bản, tông đồ, văn hóa và nghề nghiệp – trong đặc sủng của HNTN.

Một mục tiêu không thể nào thiếu được của việc huấn luyện thường xuyên là làm cho người TNTH trở thành một người có đức tin và càng ngày càng sống đức tin mạnh mẽ hơn, nghĩa là nhìn mọi vật dưới cái nhìn của Đức Kitô và nhắm tới sự thánh thiện là đỉnh cao của đời sống Kitô hữu.

Ngỏ lời với các trinh nữ, thánh Ciprianô, Giám mục Cartago, khuyên nhủ thế này: “Hỡi các trinh nữ, hãy bảo tồn căn tính của mình. Một triều thiên vinh quang đang chờ đón chị em. Lòng can đảm của chị em sẽ được thưởng xứng đáng. Một hồng ân tuyệt vời sẽ được dành cho chị em. Chị em đã bắt đầu trở thành điều mà chúng tôi sẽ trở thành mai sau. Ngay từ đời này, chị em đã nhận được vinh quang của sự phục sinh. Chị em hãy đi băng ngang qua thế gian mà không bị ô nhiễm bởi thế gian. Nhờ duy trì đức khiết tịnh và trinh khiết, chị em trở nên giống các thiên thần. Vì thế hãy bảo vệ đức trinh khiết nguyên tuyền, và điều mà chị em đã ôm ấp sau khi đã suy nghĩ chín chắn thì hãy giữ gìn nguyên tuyền một cách có ý thức.”[27]

Chương III : Đời sống và chứng tá của các TNTH


14. Luật sống cá nhân


Các TNTH phải soạn cho mình một bản luật sống, được vị linh hướng đồng ý và Giám mục giáo phận phê chuẩn.[28]

Luật sống là một dụng cụ hữu ích để xác định những hành trình cá nhân, ý nghĩa sâu xa của công tác phục vụ Giáo hội, những thái độ cần vun trồng trong đời sống hằng ngày.

Vì thế các TNTH cần phải soạn thảo bản luật sống cách rõ ràng và khúc chiết: những hình thức cụ thể của việc đi theo Chúa mà họ dốc quyết thực hành; những chọn lựa lý tưởng và những cam kết cụ thể của đường hoán cải và thanh luyện; việc chăm sóc những vết thương sâu đậm và việc vun trồng các tài năng và đặc sủng; các thời khắc dành cho việc cầu nguyện, lao động, phục vụ Giáo hội, giao lưu. Nói tóm lại, luật sống phải là bản văn diễn tả những hình thức và thời điểm mà người TNTH muốn bày tỏ sự đáp trả lời Thánh Linh mời gọi đi theo Con Chiên[29] trong cuộc sống cụ thể của đời mình.

Nhằm bảo đảm cho luật sống được thi hành hữu hiệu, bản văn nên được duyệt lại định kỳ, và nếu cần thì cập nhật và phê chuẩn, trong cuộc đối thoại với Giám mục và vị linh hướng, để lượng định việc áp dụng. Sau một thời gian, có thể cần viết lại bản luật này để giúp cho việc đổi mới lòng trung thành với ơn gọi.

Cũng vì ước ao đáp trả với tiếng gọi của Chúa một cách trung thực và sung mãn, các TNTH cần xác định cách thức sinh sống của mình: sống một mình, trong gia đình của mình, cùng với các trinh nữ khác, hoặc những cách thức khác.

15. Linh hướng


Linh hướng có tầm quan trọng đặc biệt đối với các TNTH: lối sống của họ đòi hỏi phải phân định liên tục, họ cần thực hành những sự lựa chọn có trách nhiệm, họ phải bảo tồn ơn gọi của mình trong một bối cảnh phức tạp và gây ra nhiều trở ngại cho việc sống đạo. Sự đối thoại chân tình, cởi mở và trưởng thành với một người khôn ngoan từng trải trong lãnh vực này sẽ giúp cho các TNTH những cơ hội quý báu để phân định, kiểm chứng, củng cố và đề ra những phương thế tốt để tăng trưởng trong đức tin, hoà hợp với cá nhân, đáp lại lời Chúa mời gọi nên thánh.

16. Cầu nguyện


Sự cam kết đầu tiên của các TNTH là cầu nguyện, như đã bày tỏ trong nghi thức thánh hiến.[30]

Các trinh nữ thực hành việc cầu nguyện trong niềm hiệp thông với Giáo hội, theo những quy định được vạch ra trong bản luật sống, đặt Thánh lễ là trung tâm của ngày, và chú ý lắng nghe Lời Chúa, cách riêng qua lectio divina, và lượng định những hình thức và phương pháp cầu nguyện theo truyền thống của Giáo hội, bao gồm cả những việc đạo đức bình dân.

Khi trao sách Phụng vụ Giờ kinh cho người TNTH, Giám mục nói như sau: “Ước chi lời nguyện của Giáo hội vang lên không ngừng trong trái tim và miệng lưỡi của con như lời ca ngợi liên lỉ lên cùng Chúa Cha và lời khẩn nài ơn cứu độ cho thế giới.”[31]

Với tâm tình thảo hiếu và âu yếm, các trinh nữ hãy kết hợp với Trinh nữ Maria khuôn mẫu của việc đi theo Chúa và tận hiến, để nuôi dưỡng lòng tín thác khiêm tốn, lời cầu xin khẩn nài, sự chiêm ngưỡng những mầu nhiệm của Đức Giêsu là Con của Người.

Đời sống cầu nguyện của các TNTH cần được hoà nhịp với năm phung vụ, và hằng năm không được bỏ qua những ngày tĩnh tâm.

Mỗi trinh nữ thuộc về HNTH hãy luôn nhớ rằng sự cầu nguyện không chỉ là tư riêng, quảng đại đáp lại tiếng của Hôn phu và van xin ơn trợ giúp để được trung thành với lời quyết tâm và hồng ân đã lãnh, nhưng còn là tham dự vào cuộc sống của Nhiệm thể Đức Kitô, chuyển cầu liên lỉ cho Hội thánh và cho thế giới.

17. Giữa lòng Hội thánh


Các TNTH sống một tương quan hiệp thông đặc biệt với Giáo hội địa phương và Giáo hội phổ quát.[32] Họ hãy coi giáo phận như là gia đình của Chúa đang sinh sống và hoạt động tại địa phương; họ hãy nuôi dưỡng tâm tình biết ơn đối với hiền mẫu vì đức tin mà mình đã lãnh nhận, vì sự phân định và đón nhận đặc sủng của mình; họ hãy hòa nhịp với những vất vả, những vết thương cũng như những niềm vui của giáo phận; họ hãy sẵn sàng góp phần vào công tác mục vụ thông thường, vào công cuộc truyền giáo, vào việc hiệp thông giữa các phần tử.

Ngoài ra, đối với Giám mục, họ hãy duy trì tương quan quý mến và sẵn sàng vâng phục. Trong tình hiệp thông với vị mục tử giáo phận, họ hãy sẵn sàng phục vụ Giáo hội và sứ vụ, tuỳ theo khả năng và điều kiện bản thân.

Mối dây liên kết với giáo phận cũng kết nối các TNTH với Giáo hội phổ quát, hiệp thông với Giám mục Rôma, khiến cho họ thông cảm sâu xa với việc loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi dân tộc.

18. Hiệp thông giữa những người tận hiến


Vì cùng thuộc về HNTN cho nên một dây hiệp thông chặt chẽ nảy ra giữa tất cả những người tận hiến hiện diện trong giáo phận. Họ nhìn nhận nhau như là những chị em gần gũi nhất, cùng nhau chia sẻ sự thánh hiến và lòng hăng say phục vụ Giáo hội. Qua những cuộc gặp gỡ huynh đệ, qua những cuộc trao đổi cảm nghiệm tâm linh và tông đồ, qua những buổi cầu nguyện và qua những sáng kiến khác nhằm đào sâu sự thuộc về cùng một giáo phận, cũng như qua việc có thể lập hiệp hội hoặc sống chung, các trinh nữ tìm được một sự trợ lực quý báu để đáp ứng hồng ân đã nhận, để thi hành việc phục vụ Giáo hội và để nâng đỡ nhau trong những lúc khó khăn và thử thách. Vì thế, giữa những người tận hiến, nên tìm cách tạo ra và củng cố tinh thần gia đình, cảm nghiệm hiệp thông, qua những tương quan bằng hữu, đượm nét đơn sơ, kính trọng lẫn nhau, liên đới và tôn trọng những sự khác biệt hợp pháp.

Những người tận hiến vào HNTN hãy tham gia cách tích cực và trách nhiệm vào những buổi gặp gỡ chung đã được thoả thuận với Giám mục hoặc Đại diện. Họ hãy ý thức bổn phận tham dự những khoá huấn luyện thường xuyên. Trong mức độ có thể được, họ hãy hợp tác vào việc huấn luyện những thiếu nữ ước ao được thu nhận làm ứng sinh gia nhập HNTN. Họ hãy trân trọng và cổ động những sáng kiến cụ thể nhằm thắt chặt sự hiệp thông; họ hãy đề phòng nguy cơ sống khép kín; họ hãy cắm mắt nhìn lên Chúa Giêsu để tiến tới trên đường nên thánh. Họ hãy biết nhìn nhận những lối sống khác nhau hoặc những khuynh hướng tâm linh dị biệt như là một sự phong phú cho HNTN.

19. Vì sự sống của thế giới

Các TNTH sống cuộc tận hiến cho Thiên Chúa trong khung cảnh văn hóa và xã hội mà mình đang hoạt động. Đang khi đi tìm Nước Thiên Chúa trong tất cả mọi sự, họ hãy nhận ra nơi công việc của mình một cơ hội quý giá để cộng tác vào công trình tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa; họ hãy vun trồng cảm thức về ngày lễ và nghỉ ngơi; ngay cả trong tình trạng bệnh tật, đau khổ, bất độn, họ gắng nhận ra khả năng thông phần vào cuộc tử nạn của Đức Kitô; họ góp phần vào việc canh tân xã hội tuỳ theo khả năng của mình, bằng cách sử dụng sự khôn ngoan Tin Mừng vào việc cổ võ công ích. Tuân theo giáo huấn xã hội của Giáo hội, họ hãy tỏ ra nhạy bén với những dấu chỉ thời đại, và qua cuộc đối thoại với Giám mục, họ hãy cân nhắc xem có thể tham gia trực tiếp vào hoạt động chính trị không.

Trong bài giảng mẫu của Nghi thức thánh hiến các trinh nữ, Giám mục khuyên như sau: “Các chị em hãy nhớ rằng mình đã được gắn bó với việc phục vụ Giáo hội và phục vụ tha nhân: vì thế, khi thi hành việc tông đồ trong Giáo hội và thế giới, trong trật tự thiêng liêng hay trần tục, ánh sáng chị em hãy chiếu sáng trước mặt mọi người, ngõ hầu Cha trên trời được chúc tụng và kế hoạch quy tụ vạn vật trong Đức Kitô được thành tựu.”[33]

20. Những hiệp hội và cộng đoàn các TNTH


Theo như Bộ Giáo luật đã dự trù, các TNTH có thể lập hiệp hội để tuân giữ trung thành hơn điều đã quyết tâm và giúp đỡ nhau trong việc thi hành sự phục vụ Giáo hội phù hợp với hàng ngũ của mình.[34]

Việc thiết lập một hiệp hội cũng như việc gia nhập một hiệp hội đã có là kết quả của một sự lựa chọn tự do và tự nguyện của các TNTH, quyết định tham gia vào tôn chỉ và quy chế của hiệp hội. Điều kiện tiên quyết để làm thành phần hiệp hội là đương sự đã được thánh hiến, nghĩa là đã thuộc về HNTN. Việc ra khỏi hiệp hội không đồng nghĩa với việc rời bỏ HNTN.

Nhờ việc thiết lập một hình thức hiệp hội, tuy không nhất thiết phải sống chung với nhau như các nữ tu, các TNTH có những cơ hội để tạo nên những tương quan nhân bản sâu đậm và bền vững, những dự án chung được nhiều người hỗ trợ, sự nâng đỡ dành cho những chị em bệnh tật hoặc cao tuổi hoặc gặp túng thiếu vật chất nhờ một quỹ chung do các hội viên tự ý đóng góp.

Hai hoặc nhiều TNTH có thể tự do quyết định sống chung một nhà. Đây là một điều do chính các đương sự lựa chọn để giúp đỡ lẫn nhau, để chia sẻ đời sống tâm linh hay kinh tế. Quyết định này không gắn liền với sự thánh hiến hoặc với việc gia nhập hiệp hội, đừng kể khi nào quy chế ấn định rằng đời sống chung như là một yếu tố cấu thành của hiệp hội.

21. Thuyên chuyển sang giáo phận khác


Khi một trinh nữ chuyển cư sở sang một giáo phận khác, thì chị cần được Giám mục giáo phận gốc cấp giấy chứng nhận thánh hiến và giới thiệu với Giám mục của giáo phận của cư sở mới đến. Vị này ghi nhận sự kiện và hãy đón tiếp chị với tình phụ tử, giới thiệu chị với giáo phận, và thu nhận chị vào các trinh nữ của giáo phận nếu có, cũng như thỏa thuận với chị về những điều cần thiết và hữu ích trong hoàn cảnh mới mẻ.

22. Việc làm và cấp dưỡng


Các TNTH lo liệu việc chu cấp cho bản thân nhờ thù lao của việc làm và tài sản cá nhân, và cũng cần lưu ý đến khía cạnh bảo hiểm và hưu bổng.

Đối với những TNTH làm việc trong các cơ sở của Giáo hội, thì cần phải phân biệt những công việc vì tình nguyện và những công việc theo chức nghiệp. Đối với loại thứ hai, thì họ cần phải được trả lương cân xứng cũng như các chi phí bảo hiểm và hưu bổng dựa theo dân luật.

23. Việc rời bỏ Hàng ngũ các trình nữ


Nếu một trinh nữ tận hiến, vì một lý do nghiêm trọng đã cân nhắc trước mặt Thiên Chúa cùng với sự phân định chín chắn, xin miễn chuẩn khỏi các nghĩa vụ của sự thánh hiến, thì Giám mục có năng quyền ban phép miễn chuẩn.

Sau khi nhận được đơn, Giám mục phải kiểm chứng những lý do mà trinh nữ xin miễn chuẩn, và đề nghị một thời gian tương xứng để phân định trước khi chấp thuận lời thỉnh cầu.

Trong trường hợp phải tiến hành thủ tục trục xuất một người tận hiến ra khỏi HNTN vì những lỗi nặng đối với các nghĩa vụ cam kết và vì lối sống gây gương mù cho các tín hữu, thì phải tuân giữ những quy định của luật chung cho các Hội dòng tận hiến và thích nghi cách tương cho hàng ngũ này.[35]

24. Nhóm liên kết ở cấp quốc gia và ở mỗi miền

Kinh nghiệm những năm gần đây tại Italia đã cho phép đánh giá tích cực việc thiết lập những nhóm liên kết giữa các trinh nữ tận hiến ở cấp miền hoặc ở cấp toàn quốc.

Những hình thức liên kết này thật là hữu ích và đầy hứa hẹn để chia sẻ kinh nghiệm, đào sâu những đề tài quan thiết chung, để cổ động sự hiểu biết hàng ngũ các trinh nữ, để đề nghị những nội dung và phương pháp thích hợp áp dụng vào việc huấn luyện ở những chặng khác nhau, để trình bày lên các Giám mục những gợi ý hữu ích nhằm giới thiệu hàng ngũ các trinh nữ cho các giáo phận ở Italia.

Kết luận


Giờ đây bản Ghi chú mục vụ này được trao cho các giám mục Italia, trước hết như là lời mời gọi hãy nhận ra tác động của Thánh Linh là Đấng không ngừng gợi lên những ơn gọi nên thánh giữa lòng Dân Chúa. Sự bành trướng đặc sủng của hàng ngũ các trinh nữ phải là lý do để tạ ơn, thán phục, ngợi khen Thiên Chúa vì những công việc kỳ diệu, cũng như lý do để trân trọng và khích lệ những trinh nữ tận hiến đang sống ơn gọi này.

Thật vậy, sống giữa một khung cảnh hoang mang, việc chiêm ngưỡng những hồng ân mà Thánh Linh tuôn đổ xuống Hội thánh, qua việc kêu gọi nhiều người nên thánh, khiến cho chúng ta thêm tin tưởng vào ơn Chúa, khuyến khích chúng ta đi vào con đường thập giá đang lúc mà xem ra người đời ngần ngại và lo sợ khi phải dấn thân vĩnh viễn.

Công việc phân định mà mỗi Giám mục phải thực hiện với tư cách là người mục tử cần được diễn đạt thành mối quan tâm đến các ơn gọi vào hàng ngũ các trinh nữ, cổ động những người lựa chọn đời tận hiến, cầu xin Thánh Linh ban xuống những ân huệ mà Hội thánh đang cần, tìm ra những đường hướng huấn luyện và uỷ thác việc thực thi cho những người chín chắn và thành thạo.

Những hướng dẫn của bản Ghi chú mục vụ này có thể giúp cho Giám mục soạn thảo những quy luật cụ thể cho giáo phận, tổ chức HNTN cách bền vững, giới thiệu nếp sống tận hiến này cho các tín hữu.

Bản Ghi chú này không phải là một quy định pháp lý bắt buộc phải ấn định thời hạn và cách thức tổ chức HNTN trong các giáo phận, nhưng chỉ là một dung cụ để tham chiếu khi soạn thảo những định hướng và quy tắc ở cấp giáo phận. Ước mong rằng những hướng dẫn này sẽ được bổ túc thêm trong tương lai nhờ sự đóng góp của các giám mục, với kinh nghiệm của chính các TNTH, cùng với việc suy tư thần học và những quy định của Giáo hội phổ quát.

Với lời kêu mời cầu nguyện, tin tưởng, chia sẻ các ân ban trong tình hiệp thông giữa các thánh, chúng tôi xin ký thác cho Đức Maria, là trinh nữ và là mẹ, tất cả những người nữ trong HNTN muốn bắt chước Người về lòng tin, hy vọng và sự dấn thân cho nước trời.

Phụ thêm:

Những địa chỉ hữu ích để tìm hiểu thêm về các TNTH

- Italia: www.ordovirginum.org
- Pháp: viergesconsacrées.catholique.fr
- Đức: http://www.ordovirginum.de
- Hoa Kỳ: http://www.consecratedvirgins.org/
Tây Ban Nha: http://www.ordenvirgenes.eu

[1] Gioan Phaolô II, Vita consecrata, 25-3-1996, số 7.
[2] X. Bộ Giáo luật, điều 604.
[3] “Nhờ đức mến thiêu đốt, họ không đặt bất cứ điều gì ở trên lòng yêu mến Chúa”(Lời nguyện thánh hiến trong Nghi thức thánh hiến, số 38).
[4] “Ước gì lời cầu nguyện của Giáo hội vang lên ... như lời chuyển cầu sống động cho thế giới được cứu độ” (Nghi thức thánh hiến các trinh nữ: Những nghi thức diễn giải, số 42).
[5] X. Nghi thức thánh hiến các trinh nữ: Bài giảng, số 29; Những nghi thức diễn giải, số 39-40.
[6] Vaticanô II, Perfectae caritatis, số 12.
[7] X. Bộ Giáo luật, điều 604 §1.
[8] X. Pontificale Romanum ex Decreto Sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum auctoritate Pauli PP. VI promulgatum, Ordo consecrationis virginum. Editio typica, Typis Polyglottis Vaticanis, Civitas Vaticana 1970.
[9] “Cần duyệt lại nghi thức thánh hiến các trinh nữ ở sách Nghi lễ Giáo chủ Rôma” (Vaticanô II, Sacrosanctum Concilium, số 80).
[10] Bộ Giáo luật, điều 604 §1.
[11] Dựa theo các điều 113 tt của Bộ Giáo luật.
[12] Bộ Giáo luật, điều 604 §1.
[13] X. Nghi thức thánh hiến các trinh nữ, Bài giảng, số 30.
[14] X. Nghi thức thánh hiến các trinh nữ, Lặp lại quyết tâm khiết tịnh, số 36.
[15] X. Vaticancô II, Perfectae caritatis, số 2.
[16] Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo, số 924.
[17] Gioan Phaolô II, Tông thư Mulieris dignitatem (Phẩm giá phụ nữ), ngày 15/8/1988, số 20.
[18] “Các con hãy là những nữ tì của Thiên Chúa về danh xưng và về thực chất, dõi theo Đấng Thiên mẫu” (Nghi thức thánh hiến các trinh nữ, Bài giảng, số 29).
[19] Gioan Phaolô II, Vita consecrata, số 34.
[20] X. Giáo luật điều 385.
[21] Nghi thức thánh hiến các trinh nữ. Xướng danh I số 26; X. Diễn từ của ĐGH Biển Đức XVI dành cho những người tham dự Đại Hội của hàng ngũ các trinh nữ về đề tài “Sự trinh khiết tận hiến ở giữa trần thế: ân huệ cho Giáo hội và trong Giáo hội”, ngày 15/5/2008, số 4. Xt. Bộ Giám mục, Kim chỉ nam dành cho các giám mục, ngày 22/2/2004, số 104.
[22] X. Bộ Giáo luật, điều 240 §2.
[23] Xem các số 9-11 dưới đây.
[24] Xem điều 14 sẽ nói dưới đây.
[25] Bộ Giáo luật, điều 604.
[26] Nghi thức thánh hiến các trinh nữ, Những điều dẫn nhập, số 11-12, 13, 16.
[27] Cipriano, De habitu virginum, số 22; CSEL 3, 203.
[28] “Một bản ‘luật sống’ xác định sự cam kết mà mỗi chị em đảm nhận với sự thoả thuận của Giám mục, bao gồm phương diện tâm linh cũng như phương diện thực tế. Đây là lộ trình các nhân” (ĐGH Biển Đức XVI, Diễn từ dành cho những người tham dự Đại Hội của HNTN về đề tài “Sự trinh khiết tận hiến ở giữa trần thế: ân huệ cho Giáo hội và trong Giáo hội”, ngày 15/5/2008, số 5).
[29] X. Kh 14,4.
[30] X. Nghi thức thánh hiến các trinh nữ, Dẫn nhập, số 2.
[31] X. Nghi thức thánh hiến các trinh nữ, Các nghi thức diễn giải, số 48.
[32] Gioan Phaolô II, Vita consecrata, số 42.
[33] Nghi thức thánh hiến các trinh nữ, Bài giảng, số 29.
[34] X. Bộ Giáo luật, số 604 §2.
[35] X. Bộ Giáo luật, các điều 694-704.