THỜI SỰ THẦN HỌC - SỐ 107, THÁNG 02/2025

CHỦ ĐỀ : KINH THÁNH TIẾNG VIỆT


LỜI GIỚI THIỆU



Trong năm 2025, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã đề ra định hướng “Cùng nhau loan báo Tin Mừng”. Thời sự Thần học cũng muốn góp phần vào kế hoạch ấy. Số 106 mang chủ đề là “Thần học truyền thông”, nhằm tìm hiểu những hàm ý của việc truyền thông. Đề tài của số này được gợi hứng từ biến cố 100 năm phát hành bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt của Tin Lành (năm 1925). “Tin Lành” và “Tin Mừng” có gì khác nhau không? Phải chăng loan báo Tin Mừng đồng nghĩa với phổ biến sách Kinh Thánh? Các bài viết muốn đào sâu ý nghĩa của việc dịch thuật Kinh Thánh cùng với những vấn đề kèm theo.

1. Trong bài mở đầu, Kinh Thánh: Sự Thành Hình Bản Văn, Các Ngôn Ngữ Và Bản Dịch, Luciano Zappella nhắc nhở chúng ta rằng Kinh Thánh tự bản chất là một nỗ lực “dịch” Lời Chúa sang ngôn ngữ loài người. Thiên Chúa không viết sách: điều này đúng cho Cựu Ước cũng như cho Tân Ước. Tiến trình từ truyền khẩu sang bản văn viết đã đặt ra nhiều vấn đề rồi; sau đó dịch từ nguyên bản Hipri của Cựu Ước sang bản Hy lạp (LXX) lại thêm vấn đề nữa; cuối cùng việc dịch bản Hy lạp của Tân Ước sang bản Vulgata tiếng Latinh cũng không kém phần rắc rối. Trong những thế kỷ gần đây, khoa phê bình cho thấy không những sự cần thiết phải truy về “bản gốc” (tránh nạn “tam sao” thất bản), mà còn nêu bật thực chất của việc dịch: dịch là giải thích. Vì thế không lạ gì mà nhiều khi những phân ly trong Giáo Hội bắt nguồn từ việc dịch Kinh Thánh.

2. Không thiếu người nghĩ rằng Giáo hội Công Giáo không muốn cho các tín hữu đọc Kinh Thánh, vì sợ nhiễm tư tưởng Tin Lành! Trong bài Giáo hội Công giáo và các bản dịch Kinh Thánh sang ngôn ngữ địa phương, Wim François tìm cách trả lời ý kiến ấy bằng cách khảo sát lịch sử các bản dịch Tân Ước sang các ngôn ngữ địa phương vào thời các giáo phụ và Trung cổ. Sự hạn chế việc dịch thuật các Kinh Thánh sang các ngôn ngữ địa phương xảy ra vào thời cận đại, với sự xuất hiện các “dị giáo”. Tác giả cũng cho biết thêm là những biện pháp này không phát xuất từ Công đồng Trentô, nhưng do các cơ quan giáo triều Rôma sau Công đồng.

3. Sau hai bài trình bày vấn đề dịch Kinh Thánh cách phổ quát, bài thứ ba đi vào lịch sử Giáo hội Việt Nam, mở đầu là Từ Sấm truyền đến Thánh Kinh: Ngót 400 năm Tin Mừng được loan báo trên đất Việt. Lê Minh Sơn khảo sát ý nghĩa của từ “Sấm truyền” (Cũ / Mới) được sử dụng lâu năm trước khi có từ “Thánh Kinh” (Cựu Ước / Tân Ước).

4. Qua bài “Tiếng” Nước Tôi Và “Lời” Vĩnh Cửu, Linh mục Trương Đình Hiền giới thiệu bản dịch trọn bộ Kinh Thánh đầu tiên về phía Công giáo do cha Albert Schlicklin (Cố Chính Linh), thực hiện với tựa đề “Kinh Thánh Cứ Bản Vulgata”, gồm 4 quyển, được xuất bản tại Hongkong vào những năm 1913-1916.

5. Tiến sĩ Đặng Ngọc Phúc (Phước Nguyên) kể lại tiến trình phiên dịch Kinh Thánh của Tin Lành qua bài Vài Sử Liệu Về Bản Dịch Kinh Thánh 1925, với sự góp phần của các thành viên Thánh Kinh Hội cùng với Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp, cùng với sự cộng tác của các dịch giả người Việt, trong đó nổi tiếng nhất là ông Phan Khôi.

6. Tiếp theo hai công trình mở màn về phía Công giáo và Tin Lành, Linh mục Phan Tấn Thành điểm qua Các bản dịch Kinh Thánh sang tiếng Việt trong vòng 100 năm qua (1925-2025) về cả hai bên, qua việc đối chiếu vài chi tiết. Mặt khác, hướng về tương lai, thử hỏi: liệu chúng ta có thể mơ ước một bản dịch đại kết không? Kế hoạch này đã được khai mào với bản dịch tiếng Pháp TOB (traduction œcuménique de la Bible), khởi đầu từ năm 1967, và sáng kiến này được khuyến khích qua một văn kiện được ban hành năm 1987 bởi Văn phòng Cỗ võ Hiệp nhất Kitô giáo và Liên hiệp Kinh Thánh thế giới.

7. Bản dịch văn kiện cũng là phần Phụ lục kết thúc số báo này.

* * *

Từ “Tin Lành” xuất hiện nhiều lần trong số báo này. Xin lưu ý về những ý nghĩa khác nhau của từ Tin Lành trong tiếng Việt.

1/ Nói chung, “Tin Lành” là tên gọi chung cho các cộng đoàn Kitô giáo ngoài Công giáo. Một thí dụ: trong danh sách các tôn giáo được Bộ Nội vụ công nhận dưới danh hiệu “Tin Lành”, người ta đếm được 9 tổ chức[1] khác nhau: Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc); Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam); Hội Truyền giáo Cơ đốc Việt Nam; Tổng Hội Báp-tít Việt Nam (Tổng Hội Báp-tít Việt Nam Ân điển – Nam Phương); Giáo hội Báp-tít Việt Nam (Hội thánh Báp-tít Việt Nam – Nam Phương); Hội thánh Tin Lành Trưởng Lão Việt Nam; Hội thánh Mennonite Việt Nam; Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam; Giáo hội Phúc Âm Ngũ tuần Việt Nam.

2/ Trên thực tế, trong tiếng Việt, thuật ngữ “Tin Lành” được dùng để ám chỉ ba thực thế khác nhau: Protestantism, Reformation, Evangelical. Có thể giải thích sự kiện như thế này. Đạo “Tin lành” mới được du nhập vào Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX, do nhóm Evangelical từ Hoa kỳ[2], vì thế dịch như vậy là chính xác. Tuy nhiên, tại châu Âu, danh từ Protestant quen thuộc hơn và thường được dịch là “Thệ phản”. Theo nguyên gốc Trung hoa, “Thệ phản” là gọi tắt “Thệ ước phản kháng”, nhưng trong tiếng Việt, “Thệ phản” dễ bị hiểu lầm là “phản bội lời thề” (bội thề), vì thế nên tránh. Ngoài ra, trong lịch sử Giáo hội, phong trào phát sinh từ Martin Luther được đặt tên là Reformation, có thể dịch là “canh tân, cải cách, cải tổ, cải lương, cải chánh” (đã có người dịch là “Cảnh giáo”; hoặc “Thanh giáo” nhưng từ này thích hợp hơn với Puritanism). Vấn đề trở thành phức tạp khi chúng ta “nhập cảng” những từ ngữ từ bên Trung hoa, nơi mà “Kitô giáo” ám chỉ Công giáo, còn “Cơ đốc giáo” (và Cơ đốc nhân) dành cho Protestant; đó là chưa nói đến việc dịch các hệ phái khác, chẳng hạn: Methodism (Giám lý), Pentecostalism (Ngũ tuần), Presbyterian (Trưởng lão, Trưởng nhiệm). Dĩ nhiên, không thể nào gọi tất cả những thực thể ấy bằng một tên chung là “Tin Lành”.

3/ Evangelical: ý nghĩa của từ ngữ.

Đây là một tính từ gốc bởi evangelicus trong tiếng Latinh, phát xuất từ evangelium (được dịch là: Tin vui, Tin Mừng, Phúc âm)[3]; vì vậy dịch evangelical là “Tin lành” là đúng. Thế nhưng, ngoài ý nghĩa tầm nguyên, trong lịch sử cận đại, từ evangelical còn được dùng theo bốn nghĩa khác nhau:

a) Theo một nghĩa rộng nhất, “evangelical” được hiểu là người theo phong trào Phản kháng (protestant, đối lại với “công giáo”), bởi vì họ chỉ dựa vào Tin Mừng (Lời Chúa) như quy luật tối cao (evangelicalism). Hiểu theo nghĩa này, các giáo hội Luther cũng tự xưng là “Evangelical Lutheran Church”.

b) Vào đầu thế kỷ XIX, bên Hoa kỳ và Anh, evangelical ám chỉ những phong trào chấn hưng (revival), lấy lại lòng nhiệt thành truyền giáo. Từ đó có rất nhiều Hội Truyền giáo được thành lập[4]. Công cuộc rao giảng Tin Mừng được gọi là evangelism (tương đương với evangelization bên công giáo).

c) Sang thế kỷ XX, cũng bên Hoa kỳ, evangelical là một tên đặt cho một luồng bảo thủ, chống lại khuynh hướng tự do (liberal) trong việc giải thích Kinh Thánh. Vì thế, đôi khi nhóm evangelical đồng nghĩa với fundamentalism, giải thích Kinh Thánh theo nghĩa đen (về sự tạo dựng). Họ cũng chống lại phong trào đại kết.

d) Vào những thập niên gần đây, ở Nam Mỹ, evangelical được dùng như đồng nghĩa là pentecostal.

Phong trào Evangelical ở Việt Nam thuộc nhóm thứ hai và thứ ba.

4/ Hội Thánh Tin Lành Việt Nam

Xét theo lịch sử, “Hội thánh Tin Lành” được du nhập vào Việt Nam vào đầu thế kỷ XX do tổ chức “Hội Liên hiệp Cơ đốc và Truyền giáo” (The Christian and Missionary Alliance of America, viết tắt CMA)[5], với việc thành lập cơ sở ở Đà Nẵng năm 1911. Từ năm 1927, tổ chức được mang tên là “Hội Tin Lành Đông Pháp”, đến năm 1942, sửa thành “Hội Tin Lành Đông Dương” và “Hội thánh Tin Lành Việt Nam” từ năm 1950[6]. Do hoàn cảnh phân chia đất nước năm 1954, Hội thánh bị chia đôi: Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) và Tổng liên hội Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam).

Dù sao “Hội thánh Tin Lành” thì khác với “Tổ chức Tin Lành”. “Tổ chức” thường là một hiệp hội chứ không phải là một Giáo Hội, chẳng hạn như “Thánh Kinh hội liên hiệp”[7], “Hội Cơ đốc truyền giáo Việt Nam”.

Riêng đối với việc dịch Kinh Thánh, công trình này đã được Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại thực hiện trước khi Hội thánh Tin Lành vào Việt Nam. Bản dịch Kinh Thánh năm 1925 là kết quả của sự hợp tác giữa Thánh Kinh Hội và Hội thánh Tin Lành Việt Nam.

Số báo này chỉ đề cập đến các bản dịch Kinh Thánh sang “tiếng Việt”, nghĩa là của dân tộc Kinh, chứ không bàn đến các ngôn ngữ khác. Theo thông tin của Thánh Kinh Hội Việt Nam, hiện nay (tháng 12/2024) đã có bản dịch các sắc tộc sau đây, do Thánh Kinh Hội thực hiện:

A. Các ngôn ngữ có Kinh Thánh trọn bộ:

1/ Việt (2 bản văn); 2/ Hoa (bản dịch thuộc bản quyền TKH Hong Kong); 3/ Khmer (bản dịch thuộc bản quyền TKH Cam-pu-chia); 4/ Koho; 5/ Jrai; 6/ Rade; 7/ Bunong; 8/ Bru; 9 / Dao (bản dịch thuộc bản quyền TKH Thái Lan); 10/ Hmong (phương ngữ Hmong trắng, Hmong xanh, Hmong đen); 11/ Tày; 12/ Mường (sắp phát hành)

B. Các dân tộc đã có Kinh Thánh Tân Ước, ngoại trừ các nhóm đã nêu trên:

1/ Nùng Cháo (sắp phát hành); 2/ Nùng Phàn Slình (đã phát hành); 3/ Thái (phương ngữ Thái trắng, Thái đen); 4/ Stieng (phương ngữ Stieng Buloh); 5/ Chăm (khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận); 6/ Chơ Ro (khu vực Đồng Nai, Vũng Tàu).

[1] http://bantongiao.snv.kontum.gov.vn/cong-tac-quan-ly-nha-nuoc-ve-tin-nguong,-ton-giao/Cac-to-chuc-ton-giao,-to-chuc-duoc-cap-chung-nhan-dang-ky-hoat-dong-ton-giao-o-Viet-Nam-tinh-den-thang-122020-1430

[2] Nguyễn Xuân Hùng, Về nguồn gốc và sự xuất hiện tên gọi Tin Lành tại Việt Nam, Tạp chí "Nghiên cứu tôn giáo", số 3 năm 2001, trang 47-55. Theo tác giả, mặc dù từ "Tin lành" đã xuất hiện trong bản dịch "Sấm truyền mới" của Cố Chính Linh (năm 1911), nhưng mới trở thành phổ biến từ thập niên 30 của thế kỷ XX. Theo Phước Nguyên (Đặng Ngọc Phúc), trong bài viết Kỷ Niệm 125 Năm Phát Hành Phúc Âm Lu-ca Tiếng Việt (1890-2015), từ “Tin Lành” do Jean Pierre Joseph Bonet (1844-1907) đặt làm tựa đề cho bản dịch Phúc âm Luca (Sách Tin Lành theo ông thánh Luca, Paris 1890). https://www.thuvientinlanh.org/viet_luke_1890

[3] Trong các nhà thờ Công giáo, cho đến đầu thế kỷ XX, các tín hữu được nghe đọc “Sách Evan”, vào giữa thế kỷ thì được nghe “Phúc Âm”, ngày nay hầu như khắp nơi đều được nghe “Tin Mừng”.

[4] Khởi điểm là Baptist Missionary Society in England (1792) do William Carey thành lập.

[5] Danh xưng trong tiếng Việt đã được thay đổi nhiều lần: “Hội Phước Âm Liên Hiệp”, “Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp”. Hội do Albert Benjamin Simpson sáng lập năm 1887 tại New York (xem địa chỉ internet: www.cmalliance.org)

[6] Nguyễn Xuân Hùng, bài đã dẫn ở chú thích số 2. Tên tiếng Pháp: Église Évangélique de L'Indochine Franҫaise. Tên tiếng Anh: The Evangelical Church of French Indochina.

[7] Theo Wikipedia , “Hiệp hội Thánh Kinh” (tiếng Đức: Bibelgesellschaft, tiếng Anh: Bible society), hoặc gọi là “Thánh Kinh hội”, là tên gọi chung của tổ chức Cơ Đốc giáo chuyên xuất bản và phát hành Thánh Kinh do nam tước người Đức Hildebrand von Canstein sáng lập năm 1712. Về sau, tổ chức tương tự lần lượt xuất hiện ở Anh và Pháp vào năm 1780 và 1792. Trong khoảng thời gian 1802 - 1804, dưới sự khởi xướng của Thomas Charles, thành lập "Hiệp hội Thánh Kinh Anh Quốc và Hải ngoại" (British and Foreign Bible Society), một cơ quan có quy mô to lớn thời cận đại, là nguồn gốc của phong trào xuất bản Thánh Kinh hiện đại. Tôn chỉ của nó là vì mục đích mở rộng phạm vi truyền bá Thánh Kinh, xuất bản và phát hành Thánh Kinh, nên không thêm vào bình luận hay chú giải.[2] Không lâu, Hiệp hội Thánh Kinh Scotland, Hiệp hội Thánh Kinh Hoa Kỳ, Hiệp hội Thánh Kinh Na Uy, Hiệp hội Thánh Kinh Ấn Độ, Hiệp hội Thánh Kinh Nhật Bản,... nối tiếp nhau thành lập, tất cả đều do các tông phái Tin Lành khác nhau liên hiệp hợp thành. Năm 1946, do nhu cầu phát triển mà thành lập “Hội Thánh Kinh Liên hiệp” (United Bible Societies) mang tính quốc tế. Ngoài in ấn và phát hành Thánh Kinh ra, còn tiến hành hoạt động quyên tiền gây quỹ nhằm giảm giá bán. “Hiệp hội Thánh Kinh Việt Nam” (Viet Nam Bible Society) được thành lập vào năm 1966. Xem: https://biblevietnam.org/ Nói cho đúng Thánh Kinh hội đã bắt đầu hoạt động tại Việt Nam dưới danh nghĩa “Thánh Kinh Hội Anh Quốc & Hải Ngoại” hay còn gọi là “Thánh Thơ Công Hội”.
Bài đăng cũ hơn
Bài đăng mới hơn Không tìm thấy kết quả nào
//