Học thuyết TômaNổi bậtThánh Thần
C ác tác phẩm của thánh Tôma viết về Thánh Linh rất
phong phú. Trước hết, chúng tôi xin điểm qua những đoạn văn bàn về Thánh Linh
trong mầu nhiệm Tam vị và lịch sử cứu độ; sau đó, chúng tôi sẽ giới thiệu tác
động của Thánh Linh trong một vài đề tài cụ thể: các ân huệ Thánh Linh, các đặc
sủng; các hoa trái; Luật Mới (lex nova) như là ân sủng Thánh Linh.
Trước kia, khi nghiên cứu tư tưởng thánh Tôma, người ta thường chỉ chú trọng đến các tác phẩm hệ thống của ngài. Gần đây, các học giả bắt đầu để ý đến các quyển chú giải Thánh Kinh. Chúng ta hãy rảo qua giáo huấn về Thánh Linh trong các tác phẩm, được gom vào ba mục: 1/ Summa Theologiae; 2/ Summa contra gentiles. 3/ Các quyển chú giải Thánh kinh. Sự phân chia này đi theo thứ tự từ chỗ quen thuộc đến chỗ xa lạ, chứ không theo thứ tự thời gian biên soạn của tác giả. Thực vậy, bộ Tổng luận thần học quen thuộc với chúng ta hơn cả, nhưng được soạn vào những năm cuối đời[1].
Trong bộ sách này, Thánh Linh được bàn cách đặc biệt trong Prima và Secunda pars.
1/ Trong Prima pars, Thánh Linh được nghiên cứu trong những đoạn bàn về mối tương quan giữa Tam vị (I, q. 27-38): sự phát xuất (processio) và sự phái cử (missio). Dựa theo thánh Augustinô phân tích sự phát xuất từ trí tuệ và ý muốn, thánh Tôma giải thích sự phát xuất của Thánh Linh theo đường hướng của Tình yêu. Kế đó, tác giả đã phân tích các danh xưng của ngài theo Thánh Kinh, cách riêng là ba danh xưng: Spiritus (Thần khí: q. 36), Amor (Tình yêu: q. 37), Donum (Tặng phẩm: q. 38). Spiritus muốn nói đến động lực sức sống và tình yêu. Vì Thánh Linh phát xuất từ tình yêu giữa Cha và Con, cho nên Ngài xuất phát như là Tình yêu, tình yêu trao tặng giữa Cha và Con; Ngài trở thành Sự Trao tặng nguyên thủy, biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa, và trở nên nguồn gốc cho các ân huệ ban cho các thụ tạo (I, q.38, a.2., corpus; xc. q.37). Đó cũng là điều mà thánh Phaolô đã khẳng định ở Rm 5,5: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào tâm hồn chúng ta, nhờ Thánh Linh mà Ngài ban cho chúng ta”.
2/ Trong Prima Secundae, Thánh Linh được đề cập trong 3 khối:
a) Các ân huệ Thánh Linh, cần thiết để được cứu độ, cùng với các chân phúc và hoa trái Thánh Linh (q. 68-70). Một nét đặc trưng của thánh Tôma là liên kết giữa các ân huệ, chân phúc và hoa trái Thánh Linh khi bàn về động lực của đời sống tâm linh.
b) Cốt yếu của Luật Mới (lex nova), hệ tại ân sủng Thánh Linh, tức là Tin mừng được khắc vào các trái tim (q. 106-108).
c) Ân sủng (q. 109-114).
3/ Trong Tertia pars, tác giả nhắc đến hoạt động của Thánh Linh nơi Đức Kitô (III, q. 7), Đức Maria, các thánh tông đồ (q. 25, a. 3, ad 4m). Trong bối cảnh này, thánh Tôma nói đến “instinctus familiaris” (một linh ứng và thôi thúc) nhờ đó các tông đồ và các thánh cảm nhận và biết được điều cần phải làm). Sau cùng, tác giả bàn đến ân sủng Thánh Linh được ban qua các bí tích, nhờ đó chúng ta nhận được sức mạnh để sống ơn gọi Kitô hữu và dám thi hành những công tác to lớn (q. 41, a. 2, ad 2). Thánh Linh là tình yêu lôi kéo chúng ta lên các thực tại trên trời (Spiritus Sanctus est amor nos in caelestia rapiens: III, q. 57, a. 1, ad 3).
4/ Nói chung, thánh Tôma trình bày hoạt động của Thánh Linh trong ba lãnh vực sau đây:
a) Sự hiểu biết chân lý, dù là tự nhiên hay siêu nhiên. Tất cả mọi chân lý, dù bởi bất kỳ ai nói, cũng đều bắt nguồn bởi Thánh Linh (Omne verum, a quocumque dicatur, a Spiritu Sancto est;I-II, q. 109, a. 1 ad 1; cf. I, q. 12, a. 12, ad 3)[2]. Nhận xét này giúp ta có thái độ cởi mở tìm kiếm chân lý trong các nền văn hóa, và đối thoại với tất cả những ai đang tìm kiếm chân lý trọn vẹn, bởi vì thâm tín rằng đó là những hạt giống do chính Thánh Linh đã gieo trong tâm hồn mỗi người và trong nền văn hóa các dân tộc.
b) Hoạt động siêu nhiên: Cần phải gán cho Thánh Linh không chỉ các ân huệ mà cả các nhân đức hướng Chúa khi được thi hành vì yêu thích điều thiện (I-II, q.70, a.1). Nhờ Thánh Linh, nhân loại đã bước sang chế độ giao ước mới, không còn sống dưới lề luật nữa, nhưng là dưới sự tự do của Thánh Linh (I-II, q. 93, a. 6, ad 1, trích 2Cr 3,17). Chúng ta sẽ trở lại những điểm này khi đề cập đến các ân huệ, đặc sủng, và Luật Mới ở dưới đây.
c) Thánh Linh cư ngụ trong linh hồn người công chính, thúc đẩy họ sống đức ái (I-II, q. 109, a. 9, ad 2).
Dù sao, xem ra Summa Theologiae chú ý đến hoạt động của Thánh Linh trong các tín hữu; còn Summa contra gentiles mở rộng ra đến toàn thể lịch sử cứu độ, ảnh hưởng đến muôn vật. Chúng ta hãy rảo qua tác phẩm này, được biên soạn sớm hơn (1259-1265).
Thánh Linh được bàn trong quyển Bốn, từ chương 15 đến chương 24. Trước hết tác giả tìm hiểu đức tin Công giáo về Thánh Linh trong mầu nhiệm Tam vị. Kể từ chương 20, tác giả trình bày vai trò của Thánh Linh trong kế hoạch cứu độ. Mặc dù nhìn nhận công trình của tất cả Tam vị trong kế hoạch cứu độ, nhưng thánh Tôma quy gán tất cả cho Thánh Linh, trong lãnh vực tự nhiên cũng như trong lãnh vực siêu nhiên, nhìn dưới viễn tượng của tình yêu.
- Dựa theo Kinh Thánh, tác giả khởi đi từ lãnh vực tự nhiên, và gán cho Thánh Linh những công cuộc sau đây (IV CG c. 20): 1/ Việc tạo dựng (Tv 103,30). 2/ Sự chuyển động của vạn vật (St 1,2). 3/ Việc điều hành vạn vật (2 Cr 3,17); 4/ Việc linh hoạt vạn vật, nghĩa là ban sự sống cho chúng (Ed 37,5; Ga 6,64). Cách riêng, vì tác giả gán cho Thánh Linh việc điều hành và linh hoạt vạn vật (nghĩa là gồm cả lịch sử thế giới và Hội Thánh), cho nên trong Tam vị, Ngài được coi như Ngôi vị gần gũi hơn cả với các loài thụ tạo, cách riêng gần gũi với những ai được đức mến thúc đẩy.
- Trong lãnh vực siêu nhiên, đối với con người, Thánh Linh được gán cho những công việc sau đây (IV CG c. 21): 1/ Đức mến, tức là tình yêu siêu nhiên đối với Thiên Chúa (Rm 5,5). 2/ Những hoạt động do đức mến thúc đẩy. 3/ Tình nghĩa thân thiết với Thiên Chúa cư ngụ trong linh hồn người công chính (Ga 14,23; 1 Cr 3,16). 4/ Tỏ lộ những điều huyền nhiệm về Thiên Chúa (Ga 15,15; 1 Cr 2,9-10). 5/ Ơn linh hứng để nói về Thiên Chúa (2 Pr 1,21; Mt 10,20). 6/ Tất cả những ân huệ khác của Thiên Chúa, bao gồm cả các chân phúc và tình nghĩa tử (1 Cr 12,11; Rm 8,15). 7/ Sự tha thứ tội lỗi (Ga 20,22-23). 8/ Thanh luyện hoặc đổi mới đời sống tâm linh (Tv 103,30; Ep 4,23).
- Trong chuyển động của thụ tạo trở về với Thiên Chúa, thánh Tôma đề nghị một lộ trình độc đáo của đời sống tâm linh (IV CG c. 22).
1/ Tình thân mật đối với Thiên Chúa nhờ ân sủng của Thánh Linh (Pl 3,20) được diễn tả qua việc chiêm ngắm (contemplatio): Thánh Linh biến chúng ta thành những người chiêm ngắm Thiên Chúa (2 Cr 3,18).
2/ Sự thân mật vì được sống gần bên Chúa mang lại cho ta niềm vui (Rm 14,17), nhờ đó chúng ta có thể đương đầu với những nghịch cảnh của cuộc đời. Thánh Linh được gọi là Đấng An ủi (Paraclitus: Ga 14,26)
3/ Việc sống thân mật với Thiên Chúa như bạn hữu đưa chúng ta đến chỗ hòa hợp ý muốn của ta với ý của Chúa, giúp chúng ta thi hành ý Ngài (Ga 14,15).
4/ Thánh Linh giúp chúng ta sống tinh thần tự do của con cái: hành động vì tình yêu chứ không như nô lệ (Rm 8,15).
5/ Thánh Linh hướng chúng ta đến sự thiện, vì thế chúng ta được giải thoát khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi (Gl 5,18), và hủy diệt những công việc của xác thịt (Rm 8,13).
Tóm lại, tất cả đời sống Kitô hữu được đặt dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh.
Thánh Tôma bàn đến vai trò Thánh Linh trong đời sống Giáo hội, đặc biệt khi chú giải các thư thánh Phaolô gửi Rôma và Tin mừng Gioan[3].
1/ Chú giải thư Rôma
Trong chương 8, thánh Tôma giải thích “luật của Thần khí” là Thánh Linh, nguyên ủy đời sống Kitô hữu, giải thoát loài người khỏi tội lỗi và sự chết. Luật của Thần khí không những dạy cho lý trí biết điều gì phải làm mà còn thúc đẩy ý chí để thi hành nữa. Mặt khác, luật của Thần khí cũng có thể hiểu như là hiệu quả của Thánh Linh, đó là đức tin được linh động bởi tình yêu. Trong Tân ước, luật của Thần khí có thể được hiểu như là chính Thánh Linh, hoặc như là tác động của ngài trong tâm hồn.
Cũng trong chương 8, thánh Tôma nói đến vai trò của Thánh Linh trong việc cầu nguyện khi chú giải câu văn “Thánh Linh cầu thay nguyện giúp cho chúng ta bởi vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải” (câu 26). Thực ra, chúng ta biết là cần phải cầu nguyện nói chung, nhưng chúng ta không biết cầu xin điều thích hợp trong trường hợp cụ thể; vì thế cần Thánh Linh giúp chúng ta cầu nguyện bằng cách gợi lên những ước ao chính đáng.
2/ Chú giải Tin Mừng Gioan
Trong tác phẩm này, Thánh Linh được nhắc đến 600 lần khi đề cập đến bản tính và sứ vụ của Ngài.
Ngay từ khi chú giải dẫn nhập, thánh Tôma đã giải thích “đầy tràn ân sủng và chân lý” (Ga 1,14) theo chiều hướng về các ân huệ và hoa trái Thánh Linh.
Khi chú giải cuộc đàm thoại của Chúa Giêsu với ông Nicođêmô (chương 3), thánh Tôma ví tác động Thánh Linh như gió: điều này muốn nói đến quyền năng của Thánh Linh, nhắc nhở chúng ta qua tiếng nói lương tâm hay những lời giảng dạy từ bên ngoài, và ngài dẫn dắt chúng ta đến những nơi mà ta không ngờ.
Khi chú giải chương Bốn, thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ Samaria cạnh bờ giếng ông Giacob, tác giả nêu bật Thánh Linh như là nguồn mạch vô tận trào ra mọi ân sủng.
Vai trò của Thánh Linh được bàn sâu hơn trong chú giải các diễn từ của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly. Thánh Linh được Chúa Cha phái đến như là Thần khí của Tình yêu. Ngài cũng giúp cho các tông đồ hiểu biết những giáo huấn của Chúa Giêsu. Mặt khác, nếu Thánh Linh không ngự trong tâm hồn những người nghe sứ điệp thì các lời giảng của các sứ giả không gây tác dụng nào. Bước sang chú giải chương 15, thánh Tôma mô tả những hoa trái của Thánh Linh: cao minh, hiền hậu, vui tươi, an ủi và bình an. Chúa Giêsu hứa sẽ phái Đấng An ủi từ Chúa Cha. Thánh Linh sẽ đến viếng thăm chúng ta một cách mới mẻ và biến chúng ta thành đền thờ của Ngài và để làm chứng nhân: Ngài sẽ dạy dỗ chân lý cho các môn đệ, mở lòng cho các môn đệ ngõ hầu họ sống đồng tâm nhất trí với nhau.
Lễ Ngũ tuần tưởng niệm Thánh Thần xuống trên các tông đồ, 50 ngày sau Đức Kitô Phục sinh. Dân Israel tưởng niệm, 50 ngày sau lễ Vượt qua, việc trao Lề luật cho dân Do thái, nhưng đối với các Kitô hữu, Lễ Ngũ tuần cử hành Thánh Thần hiện xuống vào ngày mà Hội thánh ra mắt thế giới bởi vì “luật của Thần khí sự sống đã được ban cho nhân loại”[4]. Để nắm bắt được ý nghĩa của lễ trọng này cần phải xét bản chất của việc phái cử Thành Linh.
Thánh Linh cần phải hoàn tất điều mà Chúa Giêsu đã bắt đầu. Ta có thể so sánh với việc tạo dựng nên con người đầu tiên, khi Thiên Chúa làm ra thân xác của con người đầu tiên rồi sau đó thổi sức sống vào mũi nó thế nào, thì Thánh Linh cũng mang lại sự sống cho thực thể mà Đức Giêsu đã tạo nên và làm cho nó sinh hoa kết quả. Trong cuộc đời công khai, Đức Kitô đã quy tụ các môn đệ chung quanh mình đã đặt một vài người làm tông đồ. Người đã hứa sẽ phái Thánh Linh đến để giúp họ nhớ lại những gì Người đã dạy họ và ban sức mạnh để chu toàn nhiệm vụ. Thánh Linh cũng sẽ linh hoạt Hội thánh bởi vì Ngài là linh hồn của Nhiệm thể.
Danh từ “Ngũ Tuần” (Pentecostes) có nghĩa là 50, tức là 7 x 7 + 1, và ám chỉ sự hoàn thiện và kiện toàn. Vào ngày đó, bảy tuần sau lễ Vượt qua, các người Do thái cử hành lễ tạ ơn về vụ gặt đã chín. Họ cũng tưởng niệm giao ước với Thiên Chúa được lập trên núi Sinai. Tiếc rằng, họ đã nhiều lần vi phạm giao ước và đã không trung thành với nó. Không ai cảm nhận sự bất trung ấy cho bằng các ngôn sứ. Thiên Chúa toàn năng không còn ở với dân của Ngài nữa. Các ngôn sứ hướng về tương lai, và nhìn thấy một kỷ nguyên mới của Đấng Mêsia, mùa xuân dồi dào ân huệ cho đám dân còn sót lại của Israel. Nhờ Thánh Linh được trao ban, họ sẽ có khả năng chu toàn ý Chúa: “Đã tới ngày – sấm ngôn của Đức Chúa – mà Ta sẽ ký kết một giao ước với nhà Israel và với nhà Giuđa, không giống như giao ước đã làm với tổ tiên Israel sau khi Ta đưa họ ra khỏi nước Ai-cập … Bởi vì đây sẽ là giao ước mà Ta sẽ lập với Israel sau những ngày ấy. Ta sẽ đặt luật của ta trong tâm khảm của chúng và sẽ viết trong trái tim của chúng và sẽ là Thiên Chúa của chúng và chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31,31).
Điều mà ngôn sứ tiên báo vào thời cuối cùng thì đã được thể hiện vào ngày lễ Ngũ Tuần. Khi các tông đồ hợp nhau với Đức Maria ở Giêrusalem thì họ nghe một cơn gió mạnh và những lưỡi lửa xuất hiện trên đầu họ. Gió là cái gì huyền nhiệm: chúng ta không thấy nó, nhưng chúng ta nghe nó. Chúng ta không biết nó đến từ đâu và đi đâu. Đó là biểu tượng của tác động Thiên Chúa trong chúng ta: chúng ta không thấy Thiên Chúa, nhưng ngài đánh động chúng ta. Lửa cũng là một biểu tượng của quyền năng Thiên Chúa và tính chất linh thiêng của nó. Thế rồi các tông đồ đi ra và lên tiếng nói với sức mạnh và khôn ngoan. Điều đáng ngạc nhiên là nhiều người ngoại quốc về Giêrusalem dự lễ và nghe các tông đồ bằng tiếng nước mình. Danh sách các dân tộc được ông Luca ghi lại ở sách Công vụ (2,5) nhớ lại cuộc phân tán loài người ra các dân tộc khác nhau nhân việc xây tháp Babel và lời hứa của sự hợp nhất trong tương lai.
Với việc Thánh Linh đến, công cuộc cứu chuộc của Đức Giêsu đạt đến cao điểm; một sức mạnh mới được ban cho các tông đồ. Hội Thánh được tổ chức. Thiên Chúa đến với chúng ta và ngự trong tâm hồn của các tín hữu như một Trạng sư. Ngài giúp các bậc cha mẹ trong nhiệm vụ khó khăn là giáo dục; Ngài ban cho các tín hữu sức mạnh để thì hành đức mến; Ngài gọi các bạn trẻ dâng mình cho Chúa. Thánh Linh ban cho các vị tử đạo sức mạnh để tuyên xưng đức tin và trung tín cho đến chết. Ngài hướng dẫn các mục tử trong việc cai quản Giáo hội. Các tín hữu không thể chỉ nghĩ đến mình mà không nghĩ đến Thiên Chúa. Chúng ta họp thành một cộng đoàn với tất cả mọi tín hữu, các thiên thần và những người đã qua đời.
Thánh Linh biến đổi chúng ta thành con cái của Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta gọi là Cha và tin tưởng cầu khẩn. Thánh Linh hỗ trợ chúng bằng các Ân huệ[5]. Trong thư gửi các tín hữu Rôma, thánh Phaolô đã mô tả hùng hồn tác động của Thánh Linh trong chúng ta. Trong khi mà dưới thời Cựu ước, dân Do thái bị ngộp với nhiều mệnh lệnh và thường lỗi phạm nghĩa vụ, thì các Kitô hữu sống trong một tình trạng hoàn toàn mới. Cũng như một phụ nữ vừa mới lập gia đình đã chu tất các bổn phận với tình yêu và hân hoan thế nào, thì chúng ta, được Thánh Linh hướng dẫn và linh hứng, không thấy khó khăn khi chu toàn các nghĩa vụ Kitô hữu. Thánh Linh biến đổi các lệnh truyền thành các lời khuyên của tình yêu. Ngài gợi lên các thánh nhân, thực hiện cuộc kết hiệp của chúng ta với Thiên Chúa, và làm cho tình yêu của chúng ta mở rộng đến tha nhân. Dọc theo dòng lịch sử, đức mến Kitô giáo đã là một hiệu quả tuyệt vời của ơn Chúa Thánh Thần hỗ trợ, dưới hình thức được gọi là các ân huệ Thánh Linh.
Thuật ngữ “các ân huệ Thánh Linh” bắt nguồn từ bản văn của ngôn sứ Isaia 11,1-3: “Từ gốc tổ Giesê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Giavê sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Giavê. Lòng kính sợ Giavê làm cho Người hứng thú”. Thánh Luca thuật lại vào lúc khởi đầu cuộc đời công khai, vào một ngày sabát trong hội đường Nazareth, Đức Giêsu lên tiếng và đọc đoạn văn Isaia “Thần khí Chúa ngự xuống trên tôi” (Is 61,11-12) như là tóm lược đoạn văn Isaia11,1-3. Truyền thống đặt tên cho thần khí khôn ngoan, minh mẫn,…là các ân huệ Thánh Linh, nhằm nêu bật động lực của Thánh Linh. Dĩ nhiên, chúng ta lãnh trách nhiệm về điều mình làm, nhưng chúng ta xin Chúa đẩy mạnh chúng ta. Trong truyền thống thần học, cách riêng từ quyển Moralia (I, c. 12) của thánh Gregorio Cả, các ân huệ này được xem như chóp đỉnh của các nhân đức phú bẩm.
Trong phần II của sách Summa Theol. (I-II), các nhân đức nói chung chiếm phần trung tâm, từ quaestio 49 đến 67, rồi tiếp theo là quaestio 68 bàn về các ân huệ Thánh Linh. Các ân huệ khác các nhân đức ở chỗ nào? Các nhân đức cũng như các ân huệ đều kiện toàn con người để làm điều tốt. Để xác định đâu là đặc trưng của ân huệ, chúng phải theo dõi lối nói của Kinh Thánh nói chúng như là các thần khí, chẳng hạn thần khí khôn ngoan, thần khí hiểu biết, vv. Các ân huệ ở trong chúng ta do một linh hứng, nghĩa là một sự thúc đẩy đến từ bên ngoài. Có hai nguyên ủy thúc đẩy chúng ta: lý trí từ bên trong, và Thiên Chúa từ bên ngoài. Để tiếp nhận sự thúc đẩy bên ngoài, cần có sự chuẩn bị xứng đáng.
Các nhân đức nhân bản kiện toàn chúng ta liên quan đến các hành vi do lý trí truyền khiến, nhưng để đón nhận sự thúc đẩy đặc biệt của Thiên Chúa, chúng ta cần có sự chuẩn bị đặc biệt, gọi là các ân huệ. Thánh Tôma giải thích rằng để đạt tới cứu cánh siêu nhiên, các nhân đức thiên phú không định hướng cho chúng ta đến độ không cần đến sự thúc đẩy đặc biệt của Thánh Linh. Trong thánh vịnh 142,10, chúng ta đọc thấy rằng: “Thần khí tốt lành của Chúa dẫn con đi trên miền đất phẳng phiu”, nghĩa là đến đích điểm trên trời. Các ân huệ là những chuẩn bị hoặc tập quán nhờ đó con người mau mắn tuân theo Thánh Linh. Trong tất cả các quan năng của chúng ta, nghĩa là các nguyên ủy hành động, cũng có các ân huệ, chẳng hạn như ơn khôn ngoan (cao minh) ở trong lý trí thuần lý, ơn hiểu biết trong lý trí thực tiễn, còn trong các cảm xúc, ơn sùng hiếu xét trong tương quan với tha nhân, ơn hùng mạnh liên quan đến bản thân của chúng ta, và ơn kính sợ liên quan đến những tham dục. Ba nhân đức hướng Chúa đưa chúng ta đến kết hiệp với Thiên Chúa và vì thế chúng được coi là tiền đề để lãnh nhận các ân huệ, tựa như là cội rễ của chúng[6]. Các ân huệ có liên hệ với nhau nhờ đức mến. Ai có đức mến thì cũng sở hữu các ân huệ.
Trong II-II của Summa Theol., khi tìm hiểu các nhân đức hướng Chúa và các nhân đức luân lý, thánh Tôma đã tìm hiểu cách thức mà sự thúc đẩy của Thánh Linh diễn ra trong từng nhân đức. Trước hết là đức tin. Đặc trưng của đức tin là có hai ân huệ liên kết với nó: ơn thâm hiểu và ơn minh luận. Trí tuệ muốn hiểu biết thấu đáo một đối tượng (thí dụ hiểu biết bản chất của các vật bị che đậy bởi các phụ thể), nhưng khả năng thâm nhập của nó bị giới hạn. Ánh sáng siêu nhiên của ơn thâm hiểu giúp cho việc đi sâu vào sự hiểu biết vượt quá khả năng biết tự nhiên. Chúng ta không thể nào biết trực tiếp các đối tượng chính yếu của đức tin, tựa như mầu nhiệm Tam vị và Nhập thể, nhưng chúng ta có thể kiểm chứng là điều hiểu biết về thế giới không trái nghịch với đức tin. Ơn thâm hiểu liên quan đến đối tượng đức tin, sắp xếp ổn định, tuy dù không thể đạt tới chỗ biết Thiên Chúa như thế nào. Ơn minh luận không mang tính suy diễn nhưng là một phán đoán chắc chắn về các sự vật tự nhiên không thuộc về đức tin[7].
Thánh Tôma liên kết ơn kính sợ Chúa với nhân đức hy vọng (cậy). Đây là sự kính sợ nhờ đó chúng ta tránh phạm tội. Sự kính sợ này là một hiệu quả của đức mến, dựa theo câu thánh vịnh 110,10: “Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan”. Ơn khôn ngoan (cao minh) gắn liền với đức mến cho phép chúng ta phán đoán và sắp xếp mọi sự theo Thiên Chúa và thứ tự mà Ngài đã xếp đặt[8]. Đức Mến mang lại cho chúng ta một thứ đồng cảm với Thiên Chúa, như ơn khôn ngoan (cao mình), trụ ở trong trí tuệ, đưa chúng ta đến chỗ hiểu rõ hơn điều mà chúng ta biết, mang lại cho chúng ta một thứ kết hiệp nào đó với nó và niềm vui nội tâm vì cảm nhận vẻ đẹp của các mầu nhiệm đức tin. Ân huệ này không chỉ liên can đến các chân lý mặc khải mà còn phê phán các hành vi nhân linh nữa.
Ơn chỉ giáo hỗ trợ nhân đức khôn ngoan: “Tư tưởng loài người thì không chắc chắn, các tính toán của chúng ta thì bấp bênh”[9] vì thế chúng ta cần sự hỗ trợ từ Thiên Chúa. Ơn chỉ giáo kiện toàn nhân đức khôn ngoan[10]. Thoạt tiên, việc thánh Tôma liên kết ơn sùng hiếu với nhân đức công bình có vẻ kỳ lạ[11]. Các ân huệ là những tâm tình giúp chúng ta đón nhận những hứng khởi của Thánh Linh, ngõ hầu chúng ta sống tình con thảo với Thiên Chúa. Nhân đức thờ phượng giúp chúng ta chu toàn nghĩa vụ phục tùng Đấng Tạo Hóa; ơn sùng hiếu thúc đẩy ta tôn kính Thiên Chúa như là Cha. Ân huệ này cũng giúp ta tỏ ra thiện cảm với hết mọi người vì họ thuộc về Thiên Chúa. Nhân đức hùng mạnh giúp chúng ta không ngần ngại làm điều thiện vì phải đương đầu với những khó khăn. Ân huệ hùng mạnh thúc đẩy chúng ta hoàn tất điều đã khởi sự và vượt thắng những nguy cơ mà ta gặp hoặc bị đe dọa[12].
Các nhân đức nhân bản được thủ đắc nhờ lặp đi lặp lại các hành vi, còn các ân huệ thì khác hẳn: đó là những sự thúc đẩy vô hình từ bên ngoài. Thánh Têrêsa Avila minh họa sự khác biệt bằng một sự so sánh: tác động chèo thuyền đòi hỏi nhiều nỗ lực, nhưng nếu một cơn gió thổi lên, thì chiếc thuyền di chuyển nhanh chóng và dễ dàng. Mặc dù các ân huệ luôn hiện diện trong những người sống trong ân sủng, nhưng cần một sự hỗ trợ đặc biệt của Thiên Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn: chẳng hạn như khi chúng ta phải quyết định điều gì khó khăn mà không lường được tất cả những hệ quả của nó.
Các ân huệ Thánh Linh vừa nói trên là món quà giúp cho các nhân đức được vận hành với một cách mới mẻ. Đó là một cách thức vận hành vượt quá điều chúng ta có thể làm nhờ sức riêng của mình. Tuy nhiên, hành động dựa theo các ân huệ Thánh Linh còn nằm trong bình diện sinh hoạt bình thường và không phát sinh những hoạt động lạ thường. Chẳng hạn như ơn thâm hiểu cho chúng ta hiểu biết đức tin cách sâu xa hơn, nhưng không ban cho ta một sự mặc khải mới của Chúa.
Bên cạnh các ân huệ vừa kể, là đỉnh cao của các nhân đức, còn có những ơn đặc biệt được gọi là “đặc sủng” (charisma)[13]. Đó là những ơn ban đặc biệt cho phép một vài Kitô hữu làm được điều khác thường, chẳng hạn như chữa bệnh, tiên báo tương lai, nói ngôn ngữ mới lạ. Thánh Tôma bàn đến những ơn này dưới tên gọi gratiae gratis datae (ơn huệ ban không), và kể ra như sau: ngôn sứ, xuất thần, nói tiếng lạ và làm phép lạ[14]. Trong Cựu ước chúng ta thấy kể lại những ơn đặc biệt này ở sách Đệ-nhị-luật (18,1-4) và ở Isaia (28,11) nói rằng vào thời Đấng Mêsia, các sứ giả đức tin sẽ nói ngôn ngữ của những người nghe. Ngôn sứ Gioel (2,28) viết rằng Thiên Chúa sẽ làm nhiều phép lạ cho các tín hữu vào thời Đấng Mêsia, một điều đã xảy ra vào lễ Ngũ tuần. Thánh Phêrô trích dẫn ngôn sứ Gioel: “Trong những ngày ấy Ta sẽ đổ tràn thần khí của Ta xuống trên mọi người. Các con trai con gái của ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, và thanh niên sẽ thấy thị kiến, và các bô lão sẽ được báo mộng, Ta sẽ đổ Thần khí Ta trên các tôi nam tớ nữ của ta và chúng sẽ trở thành ngôn sứ” (Cv 2,17-18). Thánh Phêrô cũng thêm rằng tất cả những ai kêu cầu danh Chúa thì sẽ được cứu rỗi. Trong chương 8 của sách Công vụ, chúng ta đọc thấy những ơn này cũng được ban cho những người ở Samaría.
Trong thư thứ nhất gửi Corintô, chương 12, thánh Phaolô nhắc đến các đặc sủng này. Ông viết rằng mỗi người được Thánh Linh tỏ lộ nhằm ích lợi chung. Thánh Tôma bình giải rằng không ai trong Hội Thánh mà không lãnh nhận ơn sủng Thánh Linh bằng cách này hay cách khác[15]. Các đặc sủng cho thấy rằng Thánh Linh ở với Hội Thánh và với người được ban đặc sủng. Có nhiều ơn ban khác nhau, nhưng chỉ có một Thần khí. Các đặc sủng nhằm ích chung và không ai được khoe khoang ơn huệ đã lãnh nhận được[16]. Vào thời các tông đồ, các ơn được ban thường xuyên, và có hai chức năng: a) Giáo hội còn trẻ và nhiều điều trong việc cử hành bí tích, đạo lý và chức vụ trong Giáo hội chưa được xác định. Các đặc sủng có một năng lực phi thường và bằng chứng của sự hiện diện của Thánh Linh. B) Đối với người ở bên ngoài Giáo hội, các ơn này là một dấu hiệu của Thiên Chúa hiện diện nơi các tín hữu, và giúp đỡ đắc lực cho hoạt động truyền giáo của các tông đồ. Trong những thế kỷ về sau, người ta ít nói đến các đặc sủng, nhưng chúng ta gặp thấy chúng nơi vài vị thánh như là Don Bosco, thánh Pio năm dấu, thánh Gioan Vianney.
Trong tiếng Việt, “đặc sủng” (hoặc “đoàn sủng”) là từ ngữ dùng để dịch từ charisma gốc Hy-lạp, xuất hiện 15 lần trong các thư thánh Phaolô và 1 lần trong thư thứ 1 của Phêrô (1 Pr 4,10), với ý nghĩa phức tạp (khác với charis: ân sủng). Bản dịch Vulgata chỉ duy trì từ charisma 1 lần (1 Cr 12,31), còn những nơi khác thì có lúc dịch là gratia, có lúc dịch là donum hoặc donatio. Vì thế không lạ gì mà nó ít được các nhà thần học lưu ý. Thánh Tôma là một trừ lệ, bởi vì ngài phân biệt hai loại gratia: gratia gratum faciens và gratia gratis data. Đây là một lối chơi chữ trong tiếng Latinh, bởi vì gratia, gratum, gratis đều cùng một gốc tầm nguyên, nhưng lại ám chỉ hai đặc điểm khác nhau.
Trong những trang trước đây, chúng ta đã bàn về sự hiện diện năng động của Thánh Linh, mang lại sức mạnh và tình yêu. Trong truyền thống thần học, người ta nói đến các hoa trái của Thánh Linh. Hoa trái là điều mà một cây sản xuất, ngon ngọt tốt đẹp để ăn, thơm tho để thưởng thức. Trong đời sống tâm linh, các hoa trái là sự thân tình của chúng ta với Thiên Chúa, những việc tốt lành mà ta làm[17]. Trong ngôn ngữ thường nhật, người ta nói đến “kết quả” của công việc. Những ai đã làm việc nhiều đều có thể hưởng hoa trái của công việc đã làm; tuy nhiên, cũng có những trường hợp mà hoàn cảnh thuận tiện cho phép người ta hưởng dụng.
Điều tương tự cũng xảy ra trong cuộc sống của ân sủng. Khi nào Thánh Linh dẫn dắt, công việc của chúng ta sản sinh hoa trái siêu nhiên. Trong thư gửi Galat (5,22), thánh Phaolô kể ra như là các hoa trái của Thánh Linh: bác ái, hoan lạc, bình an, kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ, từ tâm, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, khiết tịnh. Khi chú giải đoạn văn này, thánh Tôma giải thích rằng “hoa trái” vừa có nghĩa là điều mà ta đạt được nhờ công lao của mình, như kết quả tự nhiên giống hoa trái của một cây cối. Các hoa trái Thánh được hiều theo nghĩa này và mang lại sự ngon ngọt thích thú. Ý tưởng này được gợi từ sách Diễm ca (2,3): “Hoa trái của nó ngọt trong miệng ta”.
Chúng ta có thể giải thích như thế này: nếu ta yêu mến (bác ái) và cảm nhận được tình yêu này, thì ta thấy vui (hoan lạc), bởi niềm vui là kết quả của tình yêu. Nếu niềm vui của ta trọn vẹn, thì tâm hồn được bình an. Một khi trái tim, được Thánh Linh thúc đẩy, hướng đến Thiên Chúa, thì chúng ta không còn bị thu hút bởi những ước muốn trần tục và không còn bồng bềnh giữa những đối tượng khác nhau, bởi chúng ta sống bên Chúa. Nhờ tình yêu của Thánh Linh, chúng ta sẵn sàn tôn trọng tha nhân. Vì thế thánh Phaolô nói đến kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ. Kiên nhẫn là chúng ta chịu đựng những chán chường mà người khác gây ra mặc dù chúng ta đối xử tử tế với họ. Cuối cùng Thánh Linh hoạt động trong chúng ta, khiến chúng ta cư xử khiêm tốn và không dính bén những của vật chất, trở nên khiết tịnh, và xa cách những gì làm Thánh Linh buồn phiền. Như thế ta nhận thấy hoa trái tốt đẹp của đời sống Kitô giáo nếu chúng ta sống theo các nhân đức và ân huệ Thánh Linh. Các thánh thi Veni Creator Spiritus (Kinh chiều lễ Hiện xuống) và Veni Sancte Spiritus (Ca tiếp liên lễ Hiện xuống) minh hoạ tác động của Thánh Linh nơi các Kitô hữu và sự cần thiết phải kêu cầu Ngài trợ giúp.
Trong số những đề tài thần học mà thánh Tôma đã đổi mới việc nghiên cứu, một điểm quan trọng là Luật Tân ước thay thế cho Luật Cựu ước. Vào cuối thời Trung cổ và trong những thế kỷ kế tiếp, khi mà chủ nghĩa cá nhân bắt đầu thống trị, thần học luân lý tập trung vào đề tài mối tương quan giữa cá nhân người tín hữu với các mệnh lệnh của Thiên Chúa. Một vấn đề trọng tâm là phân định trong một trường hợp cụ thể ta có phải tuân giữ luật lệ nữa không. Môn giải nố (casuistica) nghiên cứu những chi tiết nhỏ nhặt của các trường hợp đặc thù. Từ đó nảy sinh các hệ thống thần học luân lý của thuyết cái nhiên (probabilismus cái nhiên đơn giản), thuyết cái nhiên hơn (ý kiến có nhiều lý chứng hơn: probabiliorismus), thuyết nghiêm nhặt. Sang thế kỷ XX, sau công đồng Vaticanô II, phần lớn cách thức đối diện vấn đề đã thay đổi. Nhiều tác giả tìm các giải pháp khác, chẳng hạn như du nhập phương pháp tương xứng giữa các điều thiện, hoặc giải pháp tiền-luân-lý của các hành vi của chúng ta, và trở thành hành vi luân lý khi ý hướng xen vào. Thông điệp Veritatis splendor đã gạt bỏ một vài ý kiến đó.
Khảo luận của thánh Tôma về luật pháp có thể giúp chúng ta nhận ra tầm quan trọng của vấn đề. Thánh Tôma định nghĩa luật như là một lệnh được thiết lập nhờ lý trí bởi người có trách nhiệm trong cộng đồng và nhắm tới điều thiện hảo chung (quaedam rationis ordinatio ad bonum commune, ab eo qui curam communitatis habet promulgata: STh I-II, 90, a.4). Mục đích của luật pháp là giúp cho các phần tử cộng đồng trở nên đức hạnh. Thánh Tôma phân biệt nhiều cấp độ luật pháp: luật hằng cửu, luật tự nhiên và luật dân sự thiết định. Trong lãnh vực mặc khải, chúng ta có luật Thiên Chúa thiết định, gồm luật Cựu ước và luật Tân ước.
Đang khi mà ích lợi và sự cần thiết của luật dân sự là chuyện quá rõ ràng, thì một câu hỏi được đặt lên liên quan đến sự cần thiết của một luật Thiên Chúa thiết định. Câu trả lời đơn giản như thế này: đối tượng cùng đích của Kitô hữu – cuộc sống với Thiên Chúa và hưởng kiến thánh nhan – vượt quá khả năng tự nhiên của con người. Vì thế con người cần đến những chỉ dẫn về con đường phải theo và những việc phải làm, nhất là khi con người dễ lầm lạc. Các luật nhân-định điều chỉnh cách cư xử bên ngoài của con người, chứ không quy định cách suy tư và tâm tình của con người, là điều rất quan trọng cho một cuộc đời đức hạnh. Luật Cũ (Thập giới) được trao cho Israel thì phù hợp với điều lý trí công minh ấn định cho việc xử sự trong xã hội, nhưng nó không cấp ban sức mạnh để tuân giữ. Vì thế cần đến ân sủng Thánh Linh do Chúa Kitô đã lập công nhờ cuộc tử nạn của mình. Xét vì hy tế của Đức Kitô đã thay thế các hy tế và phụng tự trong đền thờ của Cựu ước, cho nên Luật cũ cũng đã được thay thế dựa trên thư Hipri (7,12): “chức tư tế thay đổi thì luật cũng phải thay đổi”[18].
Trọng tâm của Luật Mới là hy tế của Đức Kitô như là hành vi yêu thương cao quý nhất. Bởi vậy, tình yêu trở thành nền tảng và nguồn mạch của đời sống Kitô giáo. Vì thế, Luật Mới cần được đặt nền trên tình yêu. Luật Cũ nhắm tới sự thịnh vượng trên đời này, những tài sản trần thế và quy định các hành vi bên ngoài. Đối lại, Luật Mới liên quan đến các điều thiện tinh thần và hướng tới đời sống nội tại của các tín hữu. Mục tiêu của Luật Cũ là dẫn Israel vâng theo ý Chúa, được diễn tả qua việc đe dọa hình phạt. Ngược lại, Luật Mới dẫn các Kitô hữu tuân hành ý Chúa vì tình yêu, tình yêu được trút đổ xuống tâm hồn do Thánh Linh[19]. Luật Mới đã được chứa đựng cách ám tàng (sub figura) trong Luật Cũ, xét về những chân lý phải tin (credenda) cũng như xét về các chỉ thị luân lý, bởi vì những điểm chính yếu đã được gói ghém trong Luật Cũ rồi[20].
Bàn về đặc trưng của Luật Mới, thánh Tôma viết rằng bản chất của sự vật được xác định bởi điều gì quan trọng nhất của nó. Dựa theo thư thánh Phaolô gửi các tin hữu Rôma, tác giả viết rằng “điều quan trọng nhất trong Luật Mới là ân sủng của Thánh Linh được ban cho những kẻ tin kính Đức Kitô” (Điều này được lặp đi lặp lại nhiều lần: Principaliter lex nova est ipsa gratia Spiritus Sancti, quae datur Christi fidelibus. xc STh, I-II, q. 106, a. 1; 106, a. 2; 107, a. 1, ad 2m et 3um; q. 108, a. 1). Thánh Phaolô không ngần ngại gắn liền từ ngữ luật với thần khí (lex spiritus), chẳng hạn như ở Rm 8,2: “Luật của thần khí sự sống trong Đức Kitô Giêsu đã giải thoát tôi không luật của tội lỗi và sự chết”. Thánh Augustinô nêu bật rằng luật của đức tin Kitô giáo được viết trong tâm khảm của các tín hữu chứ không còn viết trên bia đá nữa. Luật của Thiên Chúa ghi khắc trong con tim các tín hữu chính là sự hiện diện của Thánh Linh[21]. Luật Mới bao gồm một số điều nhằm chuẩn bị lãnh nhận ân sủng Thánh Linh và một số khác giúp chúng ta cư xử hợp với cuộc đời theo Thánh. Các văn bản Tân ước và đạo lý đức tin là những dụng cụ chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ân sủng Thánh Linh, hoặc chỉ dẫn chúng biết cách sử dụng ân sủng. Chúng mời gọi chúng ta hãy bớt lo lắng đến chuyện thế gian, để đón nhận ân sủng Chúa Kitô nhiều hơn nữa.
Một câu hỏi: Xét theo lịch sử, tại sao Luật Mới lại được ban hành muộn như vậy? (quaestio 106, art. 3) Thánh Tôma trả lời rằng bởi vì nó tùy thuộc vào hy tế Đức Kitô hiến mình trên thập giá. Ngoài ra, điều hoàn hảo cần được chuẩn bị bằng sự bất toàn. Ngoài ra, sau khi phạm tội, con người dễ nhận ra sự yếu đuối của mình và nhìn nhận sự cần thiết của ân sủng. Để lãnh nhận Luật Mới có hiệu quả, nhân loại cần nhìn nhận mình yếu kém và thiếu đức hạnh của mình[22]. Một câu hỏi khác: Luật Mới sẽ có giá trị mãi, hay là sẽ xuất hiện một kỷ nguyên khác, như Gioakim de Fiore loan báo?[23] Thánh Tôma trả lời: sẽ không có kỷ nguyên nào hoàn hảo hơn là kỷ nguyên của Đức Kitô. Đành rằng ân sủng của Thánh Linh có thể được ban dồi dào nơi người này hơn là người khác, nhưng kỷ nguyên mới của Thánh Linh không cần thiết, bởi vì Luật Mới vừa là của Đức Kitô vừa là của Thánh Linh (quaestio 106, art. 4)
Cựu ước cũng có cùng mục tiêu như là Tân ước, đó là dẫn đưa con người về với Thiên Chúa; nếu Cựu ước có vai trò chuẩn bị, thì Tân ước là luật của sự hoàn hảo bởi vì là luật của tình yêu. Ngoài ra, nó bổ túc cho những gì thiếu sót trong Cựu ước liên quan đến các hành vi nội tại và sự hoàn hảo luận lý. Luật Mới có ít lệnh truyền hơn Luật Cũ, nhưng xét vì ngăn cấm vài hành vi nội tại cho nên sự tuân giữ trở nên khó khăn hơn, mặc dù đối với những kẻ nào yêu mến Thiên Chúa thì mọi sự đều dễ dàng[24].
Thánh Phaolô viết rằng: ở đâu có Thần khí thì ở đấy có tự do[25]; phải chăng vì thế ta có thể khẳng định rằng Luật Mới cho phép được tự do hoàn toàn, không đòi hỏi một hành vi ngoại tại nào nữa (tựa như là lãnh nhận các bí tích)? Thánh Tôma trả lời rằng đúng là cốt yếu của Luật Mới hệ ở ân sủng của Thánh Linh tác động bằng tình yêu; tuy nhiên xét vì chúng ta là con người và Đức Giêsu trong cuộc đời trần thế, đã thiết lập ân sủng này vì chúng ta, cho nên ân sủng được ban cho chúng ta qua một vài hành vi bên ngoài, chẳng hạn như qua các bí tích. Ân sủng Thánh Linh ở trong chúng ta tựa như một tập quán, nhờ thế việc chu toàn ý Chúa ra như ra như là tuân theo một bản năng một cách dễ dàng và vui tươi. Nhờ được ân sủng này giúp đỡ từ bên trong, chúng ta bắt thân xác của mình suy phục tinh thần, và thực hành các hành vi ngoại tại phù hợp với tinh thần. Thánh Tôma nhấn mạnh rằng ân sủng mà Thánh Linh ban cho chúng ta trở thành một thứ tâm thức nội tại, nhờ thế giúp chúng ta hành động một cách tự phát theo những linh hứng của Thánh Linh. Vì thế Luật Mới được gọi là “luật của tự do” bởi vì nó cho chúng ta có khả năng hành động theo sự thúc giục của Thánh Linh tựa hồ như một bản năng nội tại (ex interiori instinctu), chứ không do sự cưỡng bách từ bên ngoài (I-II, q. 108, a. 1, ad 2).
Đối với Kitô giáo, đời sống tâm linh (vita spiritualis) có nghĩa là sống theo sự hướng dẫn của Thánh Linh (Rm 8; Gl 3,3; 5,13.16-25; 1 Cr 3,1-2). Theo thánh Tôma, con người “thần khí” (homo spiritualis) là kẻ sống hòa hợp với Thần khí đến nỗi ra như Thần khí trở thành “bản năng hoạt động” (instinctus Spiritus Sancti: STh I-II, 68, 2, ad 3m) nơi họ. Phàm ai để cho Thánh Linh hướng dẫn thì không những sẽ cảm nhận tình yêu và các ân huệ của Ngài, mà còn được hưởng tự do của con cái Chúa (2 Cr 3,17). Nhờ để cho Thánh Linh hướng dẫn, người tín hữu vượt lên sự xung khắc giữa luật pháp và tự do. Thực vậy, nhiều tác giả vẫn khuyên nhủ hãy trung thành với lề luật Chúa để nên trọn lành, bởi vì họ sợ rằng nếu đề cao tự do quá đáng thì sẽ rơi vào tháo thứ! Tuy nhiên sự xung khắc giữa luật pháp và tự do chỉ xảy ra khi luật pháp được coi như yếu tố áp đặt từ bên ngoài. Đối với thánh Tôma, Thánh Linh được ban để giúp ta thấm nhuần luật Chúa, không còn coi như luật Chúa như là cái gì áp đặt tự bên ngoài nhưng trở thành thâm tín nội tâm [26]. Đến mức độ này, có thể nói được rằng con người thần khí trở thành luật cho chính mình: “ipsi sibi sunt lex” (Rm 2,14-15: I-II, q. 96, a. 5, ad 1m).
Phụ thêm
Thư mục về Thần-khí-luận theo thánh Tôma rất dồi dào, có thể tìm thấy trong Arnaldo Pedrini, Bibliografía tomistica sulla pneumatologia, Città del Vaticano, 1994 (“Studi tomistici 54”), 76 trang, gồm các sách báo xuất bản từ 1870 đến 1993.
Trong Thời sự Thần học, số 76 (tháng 7/2017), có hai bài viết liên quan đến đề tài: Javier Sesé, Các ân huệ Thánh Linh và con đường nên thánh, trang 55-86. Raffaele Calabro, Các hoa trái Thánh Linh, trang 87-106.
___________
[1] [ND] Đoạn này được bổ túc với bài viết của Jean Pierre Torrell, Saint Thomas Aquinas Spiritual Master The Catholic University of America Press, Washington DC, 2003, The Catholic University of America Press, Washington DC, 2003 (Chapter VII: To speak of the Holy Spirit), p. 153-174.
[2] Đây là một câu nói được thánh Tôma gán cho thánh Ambrosiô, nhưng ngày nay các nhà phê bình cho rằng của một tác giả vô danh (được Erasmus đặt tên là Ambrosiaster). Câu nói này được lặp lại 15 lần trong các tác phẩm của thánh Tôma, phần lớn trong chú giải Sententiae và chú giải Tin Mừng Gioan.
[3] Ngoài ra cũng nên thêm: Chú giải thư thứ nhất gửi Corintô (chương 12) về các đặc sủng; Chú giải thư gửi Galát (chương 5) về tự do thần khí, như sẽ thấy dưới đây.
[4] Summa Theologiae, I-II, 102, 4 ad 10; 103, 3 ad 4.
[5] [ND] Trong các sách kinh và giáo lý ở Việt Nam, chúng ta đọc thấy “bảy ơn Chúa Thánh Thần”, nhưng nguyên gốc Latinh là “dona”, có nghĩa là “quà tặng” (don tiếng Pháp, gift tiếng Anh). Ngoài ra việc dịch thuật tên gọi mỗi ân huệ cũng thiếu thống nhất. Chúng tôi tạm đặt tên như sau: cao minh (thay vì khôn ngoan: sapientia); thâm hiểu (intellectus); minh luận (scientia); chỉ giáo (consilium); sùng hiếu (pietas); hùng mạnh (fortitudo); kính sợ Chúa (timor Domini).
[6] I-II, 68, 8.
[7] II-II, 9,2.
[8] II-II, 45.
[9] Sách Khôn ngoan 9,4.
[10] II-II, 52.
[11] II-II, 121, 1.
[12] II-II, 139.
[13] Cfr. S. Th. II-II, q. 176 y ss.
[14] II-II, qq.171-178.
[15] Super 1 Cor., c. 12, n. 725.
[16] x. S.T. II-II, 171-175.
[17] S Th. I-II, q. 70. [ND] Nên biết là trong nguyên bản Hy lạp của Tân ước, thánh Phaolô chỉ nói đến “hoa trái của Thánh Linh” (ở số ít) được diễn tả ra 9 nhân đức. Bản dịch La tinh Vulgata đề cập đến “Mười hai hoa trái” (ở số nhiều), có lẽ vì muốn móc nối với con số 12 hoa quả quanh năm của cây hằng sống được đề cập trong sách Khải huyền (22,1-2), và như vậy đã thêm vào ba hoa trái, với danh sách như sau: “bác ái, hoan lạc, bình an, kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ, từ tâm, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, khiết tịnh”.
[18] Chú thích của người dịch. Trong Tổng luận thần học, thánh Tôma đã dành ba quaestiones 106-108 trong Prima Secundae để bàn về Luật Mới, xoay quanh ba điểm: 1/ Khái niệm. 2/ Đối chiếu Luật Mới với Luật Cũ. 3/ Nội dung của Luật Mới. Tác giả cũng trưng dẫn nhiều tên gọi khác nhau của nó trong Tân ước: Luật Mới là “luật Tin mừng”, bởi vì được chứa trong Tin mừng; “luật của đức tin” (I-II, q.106, a.3; xc. Rm 3,27), “luật của ân sủng” (ibid), “luật của chân lý” (I-II, q. 107, a. 2), “luật của sự trọn hảo” (I-II, q. 107, a. 3), “luật của tình yêu” (I-II, q. 107, a. 1, ad 2), “luật của tự do” (I-II, q. 108, aa. 1,2,4; dựa theo Gc 1,25; 2,2; Gl 2,4.31; 5,30).
[19] S Th I-II, 91, 5: “Lex nova facit hoc per amorem qui in cordibus nostris infunditur per gratiam Christi quae in nova lege confertur”.
[20] S Th I-II, 107, 3 ad 1.
[21] De spiritu et littera.
[22] In Epist. ad Galatas, c. 4, lec 7.
[23] Chú thích của người dịch. Vào hồi thế kỷ XIII, Giáo hội phải đương đầu với nhóm Thần khí (Spirituales) chịu ảnh hưởng của viện phụ Joachim Fiore (k.1130-1202), cho rằng kỷ nguyên của Đức Kitô đã kết thúc, nhường chỗ cho kỷ nguyên của Thần khí, trong đó Hội thánh được cai quản không phải bởi hàng phẩm trật nhưng là bởi những con người thần khí.
[24] S. Th I-II, 107, 4 “... non sunt gravia amanti”.
[25] 2 Cr. 3,17.
[26] S Th II-II, 93, q. 6, ad 1m: “Spirituales viri non sunt sub lege: quia per caritatem, quam Spiritus Sanctus cordibus eorum infundit, voluntarie id quod legis est, implent”.
THÁNH LINH TRONG THẦN HỌC THÁNH TÔMA
0
Thời sự Thần học - Số 101, tháng 08/2023, tr. 84-111.
_Leo Elders, S.V.D._
Leo Elders SVD (1926-2019). Nguồn: Leo Elders SVD, El Espíritu Santo en la teología de Santo Tomás¸ in: Sapientia LXXI (2015), fasc. 237, pp. 121 – 146.
I. Khái quát: Thánh Linh trong mầu nhiệm Tam vị
và trong lịch sử cứu độ
A. Summa Theologiae
B. Summa contra gentiles
C. Chú giải Kinh thánh
II. Các ân huệ Thánh Linh
III. Các đặc sủng
IV. Các hoa trái Thánh Linh
V. Luật Mới (lex nova) như là ân huệ của Thánh Linh.
I. Khái quát về Thánh Linh trong mầu nhiệm Tam vị và lịch sử cứu độ
Trước kia, khi nghiên cứu tư tưởng thánh Tôma, người ta thường chỉ chú trọng đến các tác phẩm hệ thống của ngài. Gần đây, các học giả bắt đầu để ý đến các quyển chú giải Thánh Kinh. Chúng ta hãy rảo qua giáo huấn về Thánh Linh trong các tác phẩm, được gom vào ba mục: 1/ Summa Theologiae; 2/ Summa contra gentiles. 3/ Các quyển chú giải Thánh kinh. Sự phân chia này đi theo thứ tự từ chỗ quen thuộc đến chỗ xa lạ, chứ không theo thứ tự thời gian biên soạn của tác giả. Thực vậy, bộ Tổng luận thần học quen thuộc với chúng ta hơn cả, nhưng được soạn vào những năm cuối đời[1].
A. Summa Theologiae
Trong bộ sách này, Thánh Linh được bàn cách đặc biệt trong Prima và Secunda pars.
1/ Trong Prima pars, Thánh Linh được nghiên cứu trong những đoạn bàn về mối tương quan giữa Tam vị (I, q. 27-38): sự phát xuất (processio) và sự phái cử (missio). Dựa theo thánh Augustinô phân tích sự phát xuất từ trí tuệ và ý muốn, thánh Tôma giải thích sự phát xuất của Thánh Linh theo đường hướng của Tình yêu. Kế đó, tác giả đã phân tích các danh xưng của ngài theo Thánh Kinh, cách riêng là ba danh xưng: Spiritus (Thần khí: q. 36), Amor (Tình yêu: q. 37), Donum (Tặng phẩm: q. 38). Spiritus muốn nói đến động lực sức sống và tình yêu. Vì Thánh Linh phát xuất từ tình yêu giữa Cha và Con, cho nên Ngài xuất phát như là Tình yêu, tình yêu trao tặng giữa Cha và Con; Ngài trở thành Sự Trao tặng nguyên thủy, biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa, và trở nên nguồn gốc cho các ân huệ ban cho các thụ tạo (I, q.38, a.2., corpus; xc. q.37). Đó cũng là điều mà thánh Phaolô đã khẳng định ở Rm 5,5: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào tâm hồn chúng ta, nhờ Thánh Linh mà Ngài ban cho chúng ta”.
2/ Trong Prima Secundae, Thánh Linh được đề cập trong 3 khối:
a) Các ân huệ Thánh Linh, cần thiết để được cứu độ, cùng với các chân phúc và hoa trái Thánh Linh (q. 68-70). Một nét đặc trưng của thánh Tôma là liên kết giữa các ân huệ, chân phúc và hoa trái Thánh Linh khi bàn về động lực của đời sống tâm linh.
b) Cốt yếu của Luật Mới (lex nova), hệ tại ân sủng Thánh Linh, tức là Tin mừng được khắc vào các trái tim (q. 106-108).
c) Ân sủng (q. 109-114).
3/ Trong Tertia pars, tác giả nhắc đến hoạt động của Thánh Linh nơi Đức Kitô (III, q. 7), Đức Maria, các thánh tông đồ (q. 25, a. 3, ad 4m). Trong bối cảnh này, thánh Tôma nói đến “instinctus familiaris” (một linh ứng và thôi thúc) nhờ đó các tông đồ và các thánh cảm nhận và biết được điều cần phải làm). Sau cùng, tác giả bàn đến ân sủng Thánh Linh được ban qua các bí tích, nhờ đó chúng ta nhận được sức mạnh để sống ơn gọi Kitô hữu và dám thi hành những công tác to lớn (q. 41, a. 2, ad 2). Thánh Linh là tình yêu lôi kéo chúng ta lên các thực tại trên trời (Spiritus Sanctus est amor nos in caelestia rapiens: III, q. 57, a. 1, ad 3).
4/ Nói chung, thánh Tôma trình bày hoạt động của Thánh Linh trong ba lãnh vực sau đây:
a) Sự hiểu biết chân lý, dù là tự nhiên hay siêu nhiên. Tất cả mọi chân lý, dù bởi bất kỳ ai nói, cũng đều bắt nguồn bởi Thánh Linh (Omne verum, a quocumque dicatur, a Spiritu Sancto est;I-II, q. 109, a. 1 ad 1; cf. I, q. 12, a. 12, ad 3)[2]. Nhận xét này giúp ta có thái độ cởi mở tìm kiếm chân lý trong các nền văn hóa, và đối thoại với tất cả những ai đang tìm kiếm chân lý trọn vẹn, bởi vì thâm tín rằng đó là những hạt giống do chính Thánh Linh đã gieo trong tâm hồn mỗi người và trong nền văn hóa các dân tộc.
b) Hoạt động siêu nhiên: Cần phải gán cho Thánh Linh không chỉ các ân huệ mà cả các nhân đức hướng Chúa khi được thi hành vì yêu thích điều thiện (I-II, q.70, a.1). Nhờ Thánh Linh, nhân loại đã bước sang chế độ giao ước mới, không còn sống dưới lề luật nữa, nhưng là dưới sự tự do của Thánh Linh (I-II, q. 93, a. 6, ad 1, trích 2Cr 3,17). Chúng ta sẽ trở lại những điểm này khi đề cập đến các ân huệ, đặc sủng, và Luật Mới ở dưới đây.
c) Thánh Linh cư ngụ trong linh hồn người công chính, thúc đẩy họ sống đức ái (I-II, q. 109, a. 9, ad 2).
Dù sao, xem ra Summa Theologiae chú ý đến hoạt động của Thánh Linh trong các tín hữu; còn Summa contra gentiles mở rộng ra đến toàn thể lịch sử cứu độ, ảnh hưởng đến muôn vật. Chúng ta hãy rảo qua tác phẩm này, được biên soạn sớm hơn (1259-1265).
B. Summa contra gentiles
Thánh Linh được bàn trong quyển Bốn, từ chương 15 đến chương 24. Trước hết tác giả tìm hiểu đức tin Công giáo về Thánh Linh trong mầu nhiệm Tam vị. Kể từ chương 20, tác giả trình bày vai trò của Thánh Linh trong kế hoạch cứu độ. Mặc dù nhìn nhận công trình của tất cả Tam vị trong kế hoạch cứu độ, nhưng thánh Tôma quy gán tất cả cho Thánh Linh, trong lãnh vực tự nhiên cũng như trong lãnh vực siêu nhiên, nhìn dưới viễn tượng của tình yêu.
- Dựa theo Kinh Thánh, tác giả khởi đi từ lãnh vực tự nhiên, và gán cho Thánh Linh những công cuộc sau đây (IV CG c. 20): 1/ Việc tạo dựng (Tv 103,30). 2/ Sự chuyển động của vạn vật (St 1,2). 3/ Việc điều hành vạn vật (2 Cr 3,17); 4/ Việc linh hoạt vạn vật, nghĩa là ban sự sống cho chúng (Ed 37,5; Ga 6,64). Cách riêng, vì tác giả gán cho Thánh Linh việc điều hành và linh hoạt vạn vật (nghĩa là gồm cả lịch sử thế giới và Hội Thánh), cho nên trong Tam vị, Ngài được coi như Ngôi vị gần gũi hơn cả với các loài thụ tạo, cách riêng gần gũi với những ai được đức mến thúc đẩy.
- Trong lãnh vực siêu nhiên, đối với con người, Thánh Linh được gán cho những công việc sau đây (IV CG c. 21): 1/ Đức mến, tức là tình yêu siêu nhiên đối với Thiên Chúa (Rm 5,5). 2/ Những hoạt động do đức mến thúc đẩy. 3/ Tình nghĩa thân thiết với Thiên Chúa cư ngụ trong linh hồn người công chính (Ga 14,23; 1 Cr 3,16). 4/ Tỏ lộ những điều huyền nhiệm về Thiên Chúa (Ga 15,15; 1 Cr 2,9-10). 5/ Ơn linh hứng để nói về Thiên Chúa (2 Pr 1,21; Mt 10,20). 6/ Tất cả những ân huệ khác của Thiên Chúa, bao gồm cả các chân phúc và tình nghĩa tử (1 Cr 12,11; Rm 8,15). 7/ Sự tha thứ tội lỗi (Ga 20,22-23). 8/ Thanh luyện hoặc đổi mới đời sống tâm linh (Tv 103,30; Ep 4,23).
- Trong chuyển động của thụ tạo trở về với Thiên Chúa, thánh Tôma đề nghị một lộ trình độc đáo của đời sống tâm linh (IV CG c. 22).
1/ Tình thân mật đối với Thiên Chúa nhờ ân sủng của Thánh Linh (Pl 3,20) được diễn tả qua việc chiêm ngắm (contemplatio): Thánh Linh biến chúng ta thành những người chiêm ngắm Thiên Chúa (2 Cr 3,18).
2/ Sự thân mật vì được sống gần bên Chúa mang lại cho ta niềm vui (Rm 14,17), nhờ đó chúng ta có thể đương đầu với những nghịch cảnh của cuộc đời. Thánh Linh được gọi là Đấng An ủi (Paraclitus: Ga 14,26)
3/ Việc sống thân mật với Thiên Chúa như bạn hữu đưa chúng ta đến chỗ hòa hợp ý muốn của ta với ý của Chúa, giúp chúng ta thi hành ý Ngài (Ga 14,15).
4/ Thánh Linh giúp chúng ta sống tinh thần tự do của con cái: hành động vì tình yêu chứ không như nô lệ (Rm 8,15).
5/ Thánh Linh hướng chúng ta đến sự thiện, vì thế chúng ta được giải thoát khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi (Gl 5,18), và hủy diệt những công việc của xác thịt (Rm 8,13).
Tóm lại, tất cả đời sống Kitô hữu được đặt dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh.
C. Các chú giải Kinh thánh
Thánh Tôma bàn đến vai trò Thánh Linh trong đời sống Giáo hội, đặc biệt khi chú giải các thư thánh Phaolô gửi Rôma và Tin mừng Gioan[3].
1/ Chú giải thư Rôma
Trong chương 8, thánh Tôma giải thích “luật của Thần khí” là Thánh Linh, nguyên ủy đời sống Kitô hữu, giải thoát loài người khỏi tội lỗi và sự chết. Luật của Thần khí không những dạy cho lý trí biết điều gì phải làm mà còn thúc đẩy ý chí để thi hành nữa. Mặt khác, luật của Thần khí cũng có thể hiểu như là hiệu quả của Thánh Linh, đó là đức tin được linh động bởi tình yêu. Trong Tân ước, luật của Thần khí có thể được hiểu như là chính Thánh Linh, hoặc như là tác động của ngài trong tâm hồn.
Cũng trong chương 8, thánh Tôma nói đến vai trò của Thánh Linh trong việc cầu nguyện khi chú giải câu văn “Thánh Linh cầu thay nguyện giúp cho chúng ta bởi vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải” (câu 26). Thực ra, chúng ta biết là cần phải cầu nguyện nói chung, nhưng chúng ta không biết cầu xin điều thích hợp trong trường hợp cụ thể; vì thế cần Thánh Linh giúp chúng ta cầu nguyện bằng cách gợi lên những ước ao chính đáng.
2/ Chú giải Tin Mừng Gioan
Trong tác phẩm này, Thánh Linh được nhắc đến 600 lần khi đề cập đến bản tính và sứ vụ của Ngài.
Ngay từ khi chú giải dẫn nhập, thánh Tôma đã giải thích “đầy tràn ân sủng và chân lý” (Ga 1,14) theo chiều hướng về các ân huệ và hoa trái Thánh Linh.
Khi chú giải cuộc đàm thoại của Chúa Giêsu với ông Nicođêmô (chương 3), thánh Tôma ví tác động Thánh Linh như gió: điều này muốn nói đến quyền năng của Thánh Linh, nhắc nhở chúng ta qua tiếng nói lương tâm hay những lời giảng dạy từ bên ngoài, và ngài dẫn dắt chúng ta đến những nơi mà ta không ngờ.
Khi chú giải chương Bốn, thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ Samaria cạnh bờ giếng ông Giacob, tác giả nêu bật Thánh Linh như là nguồn mạch vô tận trào ra mọi ân sủng.
Vai trò của Thánh Linh được bàn sâu hơn trong chú giải các diễn từ của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly. Thánh Linh được Chúa Cha phái đến như là Thần khí của Tình yêu. Ngài cũng giúp cho các tông đồ hiểu biết những giáo huấn của Chúa Giêsu. Mặt khác, nếu Thánh Linh không ngự trong tâm hồn những người nghe sứ điệp thì các lời giảng của các sứ giả không gây tác dụng nào. Bước sang chú giải chương 15, thánh Tôma mô tả những hoa trái của Thánh Linh: cao minh, hiền hậu, vui tươi, an ủi và bình an. Chúa Giêsu hứa sẽ phái Đấng An ủi từ Chúa Cha. Thánh Linh sẽ đến viếng thăm chúng ta một cách mới mẻ và biến chúng ta thành đền thờ của Ngài và để làm chứng nhân: Ngài sẽ dạy dỗ chân lý cho các môn đệ, mở lòng cho các môn đệ ngõ hầu họ sống đồng tâm nhất trí với nhau.
II. Các ân huệ Thánh Linh
Lễ Ngũ tuần tưởng niệm Thánh Thần xuống trên các tông đồ, 50 ngày sau Đức Kitô Phục sinh. Dân Israel tưởng niệm, 50 ngày sau lễ Vượt qua, việc trao Lề luật cho dân Do thái, nhưng đối với các Kitô hữu, Lễ Ngũ tuần cử hành Thánh Thần hiện xuống vào ngày mà Hội thánh ra mắt thế giới bởi vì “luật của Thần khí sự sống đã được ban cho nhân loại”[4]. Để nắm bắt được ý nghĩa của lễ trọng này cần phải xét bản chất của việc phái cử Thành Linh.
Thánh Linh cần phải hoàn tất điều mà Chúa Giêsu đã bắt đầu. Ta có thể so sánh với việc tạo dựng nên con người đầu tiên, khi Thiên Chúa làm ra thân xác của con người đầu tiên rồi sau đó thổi sức sống vào mũi nó thế nào, thì Thánh Linh cũng mang lại sự sống cho thực thể mà Đức Giêsu đã tạo nên và làm cho nó sinh hoa kết quả. Trong cuộc đời công khai, Đức Kitô đã quy tụ các môn đệ chung quanh mình đã đặt một vài người làm tông đồ. Người đã hứa sẽ phái Thánh Linh đến để giúp họ nhớ lại những gì Người đã dạy họ và ban sức mạnh để chu toàn nhiệm vụ. Thánh Linh cũng sẽ linh hoạt Hội thánh bởi vì Ngài là linh hồn của Nhiệm thể.
Danh từ “Ngũ Tuần” (Pentecostes) có nghĩa là 50, tức là 7 x 7 + 1, và ám chỉ sự hoàn thiện và kiện toàn. Vào ngày đó, bảy tuần sau lễ Vượt qua, các người Do thái cử hành lễ tạ ơn về vụ gặt đã chín. Họ cũng tưởng niệm giao ước với Thiên Chúa được lập trên núi Sinai. Tiếc rằng, họ đã nhiều lần vi phạm giao ước và đã không trung thành với nó. Không ai cảm nhận sự bất trung ấy cho bằng các ngôn sứ. Thiên Chúa toàn năng không còn ở với dân của Ngài nữa. Các ngôn sứ hướng về tương lai, và nhìn thấy một kỷ nguyên mới của Đấng Mêsia, mùa xuân dồi dào ân huệ cho đám dân còn sót lại của Israel. Nhờ Thánh Linh được trao ban, họ sẽ có khả năng chu toàn ý Chúa: “Đã tới ngày – sấm ngôn của Đức Chúa – mà Ta sẽ ký kết một giao ước với nhà Israel và với nhà Giuđa, không giống như giao ước đã làm với tổ tiên Israel sau khi Ta đưa họ ra khỏi nước Ai-cập … Bởi vì đây sẽ là giao ước mà Ta sẽ lập với Israel sau những ngày ấy. Ta sẽ đặt luật của ta trong tâm khảm của chúng và sẽ viết trong trái tim của chúng và sẽ là Thiên Chúa của chúng và chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31,31).
Điều mà ngôn sứ tiên báo vào thời cuối cùng thì đã được thể hiện vào ngày lễ Ngũ Tuần. Khi các tông đồ hợp nhau với Đức Maria ở Giêrusalem thì họ nghe một cơn gió mạnh và những lưỡi lửa xuất hiện trên đầu họ. Gió là cái gì huyền nhiệm: chúng ta không thấy nó, nhưng chúng ta nghe nó. Chúng ta không biết nó đến từ đâu và đi đâu. Đó là biểu tượng của tác động Thiên Chúa trong chúng ta: chúng ta không thấy Thiên Chúa, nhưng ngài đánh động chúng ta. Lửa cũng là một biểu tượng của quyền năng Thiên Chúa và tính chất linh thiêng của nó. Thế rồi các tông đồ đi ra và lên tiếng nói với sức mạnh và khôn ngoan. Điều đáng ngạc nhiên là nhiều người ngoại quốc về Giêrusalem dự lễ và nghe các tông đồ bằng tiếng nước mình. Danh sách các dân tộc được ông Luca ghi lại ở sách Công vụ (2,5) nhớ lại cuộc phân tán loài người ra các dân tộc khác nhau nhân việc xây tháp Babel và lời hứa của sự hợp nhất trong tương lai.
Với việc Thánh Linh đến, công cuộc cứu chuộc của Đức Giêsu đạt đến cao điểm; một sức mạnh mới được ban cho các tông đồ. Hội Thánh được tổ chức. Thiên Chúa đến với chúng ta và ngự trong tâm hồn của các tín hữu như một Trạng sư. Ngài giúp các bậc cha mẹ trong nhiệm vụ khó khăn là giáo dục; Ngài ban cho các tín hữu sức mạnh để thì hành đức mến; Ngài gọi các bạn trẻ dâng mình cho Chúa. Thánh Linh ban cho các vị tử đạo sức mạnh để tuyên xưng đức tin và trung tín cho đến chết. Ngài hướng dẫn các mục tử trong việc cai quản Giáo hội. Các tín hữu không thể chỉ nghĩ đến mình mà không nghĩ đến Thiên Chúa. Chúng ta họp thành một cộng đoàn với tất cả mọi tín hữu, các thiên thần và những người đã qua đời.
Thánh Linh biến đổi chúng ta thành con cái của Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta gọi là Cha và tin tưởng cầu khẩn. Thánh Linh hỗ trợ chúng bằng các Ân huệ[5]. Trong thư gửi các tín hữu Rôma, thánh Phaolô đã mô tả hùng hồn tác động của Thánh Linh trong chúng ta. Trong khi mà dưới thời Cựu ước, dân Do thái bị ngộp với nhiều mệnh lệnh và thường lỗi phạm nghĩa vụ, thì các Kitô hữu sống trong một tình trạng hoàn toàn mới. Cũng như một phụ nữ vừa mới lập gia đình đã chu tất các bổn phận với tình yêu và hân hoan thế nào, thì chúng ta, được Thánh Linh hướng dẫn và linh hứng, không thấy khó khăn khi chu toàn các nghĩa vụ Kitô hữu. Thánh Linh biến đổi các lệnh truyền thành các lời khuyên của tình yêu. Ngài gợi lên các thánh nhân, thực hiện cuộc kết hiệp của chúng ta với Thiên Chúa, và làm cho tình yêu của chúng ta mở rộng đến tha nhân. Dọc theo dòng lịch sử, đức mến Kitô giáo đã là một hiệu quả tuyệt vời của ơn Chúa Thánh Thần hỗ trợ, dưới hình thức được gọi là các ân huệ Thánh Linh.
Thuật ngữ “các ân huệ Thánh Linh” bắt nguồn từ bản văn của ngôn sứ Isaia 11,1-3: “Từ gốc tổ Giesê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Giavê sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Giavê. Lòng kính sợ Giavê làm cho Người hứng thú”. Thánh Luca thuật lại vào lúc khởi đầu cuộc đời công khai, vào một ngày sabát trong hội đường Nazareth, Đức Giêsu lên tiếng và đọc đoạn văn Isaia “Thần khí Chúa ngự xuống trên tôi” (Is 61,11-12) như là tóm lược đoạn văn Isaia11,1-3. Truyền thống đặt tên cho thần khí khôn ngoan, minh mẫn,…là các ân huệ Thánh Linh, nhằm nêu bật động lực của Thánh Linh. Dĩ nhiên, chúng ta lãnh trách nhiệm về điều mình làm, nhưng chúng ta xin Chúa đẩy mạnh chúng ta. Trong truyền thống thần học, cách riêng từ quyển Moralia (I, c. 12) của thánh Gregorio Cả, các ân huệ này được xem như chóp đỉnh của các nhân đức phú bẩm.
Trong phần II của sách Summa Theol. (I-II), các nhân đức nói chung chiếm phần trung tâm, từ quaestio 49 đến 67, rồi tiếp theo là quaestio 68 bàn về các ân huệ Thánh Linh. Các ân huệ khác các nhân đức ở chỗ nào? Các nhân đức cũng như các ân huệ đều kiện toàn con người để làm điều tốt. Để xác định đâu là đặc trưng của ân huệ, chúng phải theo dõi lối nói của Kinh Thánh nói chúng như là các thần khí, chẳng hạn thần khí khôn ngoan, thần khí hiểu biết, vv. Các ân huệ ở trong chúng ta do một linh hứng, nghĩa là một sự thúc đẩy đến từ bên ngoài. Có hai nguyên ủy thúc đẩy chúng ta: lý trí từ bên trong, và Thiên Chúa từ bên ngoài. Để tiếp nhận sự thúc đẩy bên ngoài, cần có sự chuẩn bị xứng đáng.
Các nhân đức nhân bản kiện toàn chúng ta liên quan đến các hành vi do lý trí truyền khiến, nhưng để đón nhận sự thúc đẩy đặc biệt của Thiên Chúa, chúng ta cần có sự chuẩn bị đặc biệt, gọi là các ân huệ. Thánh Tôma giải thích rằng để đạt tới cứu cánh siêu nhiên, các nhân đức thiên phú không định hướng cho chúng ta đến độ không cần đến sự thúc đẩy đặc biệt của Thánh Linh. Trong thánh vịnh 142,10, chúng ta đọc thấy rằng: “Thần khí tốt lành của Chúa dẫn con đi trên miền đất phẳng phiu”, nghĩa là đến đích điểm trên trời. Các ân huệ là những chuẩn bị hoặc tập quán nhờ đó con người mau mắn tuân theo Thánh Linh. Trong tất cả các quan năng của chúng ta, nghĩa là các nguyên ủy hành động, cũng có các ân huệ, chẳng hạn như ơn khôn ngoan (cao minh) ở trong lý trí thuần lý, ơn hiểu biết trong lý trí thực tiễn, còn trong các cảm xúc, ơn sùng hiếu xét trong tương quan với tha nhân, ơn hùng mạnh liên quan đến bản thân của chúng ta, và ơn kính sợ liên quan đến những tham dục. Ba nhân đức hướng Chúa đưa chúng ta đến kết hiệp với Thiên Chúa và vì thế chúng được coi là tiền đề để lãnh nhận các ân huệ, tựa như là cội rễ của chúng[6]. Các ân huệ có liên hệ với nhau nhờ đức mến. Ai có đức mến thì cũng sở hữu các ân huệ.
Trong II-II của Summa Theol., khi tìm hiểu các nhân đức hướng Chúa và các nhân đức luân lý, thánh Tôma đã tìm hiểu cách thức mà sự thúc đẩy của Thánh Linh diễn ra trong từng nhân đức. Trước hết là đức tin. Đặc trưng của đức tin là có hai ân huệ liên kết với nó: ơn thâm hiểu và ơn minh luận. Trí tuệ muốn hiểu biết thấu đáo một đối tượng (thí dụ hiểu biết bản chất của các vật bị che đậy bởi các phụ thể), nhưng khả năng thâm nhập của nó bị giới hạn. Ánh sáng siêu nhiên của ơn thâm hiểu giúp cho việc đi sâu vào sự hiểu biết vượt quá khả năng biết tự nhiên. Chúng ta không thể nào biết trực tiếp các đối tượng chính yếu của đức tin, tựa như mầu nhiệm Tam vị và Nhập thể, nhưng chúng ta có thể kiểm chứng là điều hiểu biết về thế giới không trái nghịch với đức tin. Ơn thâm hiểu liên quan đến đối tượng đức tin, sắp xếp ổn định, tuy dù không thể đạt tới chỗ biết Thiên Chúa như thế nào. Ơn minh luận không mang tính suy diễn nhưng là một phán đoán chắc chắn về các sự vật tự nhiên không thuộc về đức tin[7].
Thánh Tôma liên kết ơn kính sợ Chúa với nhân đức hy vọng (cậy). Đây là sự kính sợ nhờ đó chúng ta tránh phạm tội. Sự kính sợ này là một hiệu quả của đức mến, dựa theo câu thánh vịnh 110,10: “Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan”. Ơn khôn ngoan (cao minh) gắn liền với đức mến cho phép chúng ta phán đoán và sắp xếp mọi sự theo Thiên Chúa và thứ tự mà Ngài đã xếp đặt[8]. Đức Mến mang lại cho chúng ta một thứ đồng cảm với Thiên Chúa, như ơn khôn ngoan (cao mình), trụ ở trong trí tuệ, đưa chúng ta đến chỗ hiểu rõ hơn điều mà chúng ta biết, mang lại cho chúng ta một thứ kết hiệp nào đó với nó và niềm vui nội tâm vì cảm nhận vẻ đẹp của các mầu nhiệm đức tin. Ân huệ này không chỉ liên can đến các chân lý mặc khải mà còn phê phán các hành vi nhân linh nữa.
Ơn chỉ giáo hỗ trợ nhân đức khôn ngoan: “Tư tưởng loài người thì không chắc chắn, các tính toán của chúng ta thì bấp bênh”[9] vì thế chúng ta cần sự hỗ trợ từ Thiên Chúa. Ơn chỉ giáo kiện toàn nhân đức khôn ngoan[10]. Thoạt tiên, việc thánh Tôma liên kết ơn sùng hiếu với nhân đức công bình có vẻ kỳ lạ[11]. Các ân huệ là những tâm tình giúp chúng ta đón nhận những hứng khởi của Thánh Linh, ngõ hầu chúng ta sống tình con thảo với Thiên Chúa. Nhân đức thờ phượng giúp chúng ta chu toàn nghĩa vụ phục tùng Đấng Tạo Hóa; ơn sùng hiếu thúc đẩy ta tôn kính Thiên Chúa như là Cha. Ân huệ này cũng giúp ta tỏ ra thiện cảm với hết mọi người vì họ thuộc về Thiên Chúa. Nhân đức hùng mạnh giúp chúng ta không ngần ngại làm điều thiện vì phải đương đầu với những khó khăn. Ân huệ hùng mạnh thúc đẩy chúng ta hoàn tất điều đã khởi sự và vượt thắng những nguy cơ mà ta gặp hoặc bị đe dọa[12].
Các nhân đức nhân bản được thủ đắc nhờ lặp đi lặp lại các hành vi, còn các ân huệ thì khác hẳn: đó là những sự thúc đẩy vô hình từ bên ngoài. Thánh Têrêsa Avila minh họa sự khác biệt bằng một sự so sánh: tác động chèo thuyền đòi hỏi nhiều nỗ lực, nhưng nếu một cơn gió thổi lên, thì chiếc thuyền di chuyển nhanh chóng và dễ dàng. Mặc dù các ân huệ luôn hiện diện trong những người sống trong ân sủng, nhưng cần một sự hỗ trợ đặc biệt của Thiên Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn: chẳng hạn như khi chúng ta phải quyết định điều gì khó khăn mà không lường được tất cả những hệ quả của nó.
III. Các đặc sủng
Các ân huệ Thánh Linh vừa nói trên là món quà giúp cho các nhân đức được vận hành với một cách mới mẻ. Đó là một cách thức vận hành vượt quá điều chúng ta có thể làm nhờ sức riêng của mình. Tuy nhiên, hành động dựa theo các ân huệ Thánh Linh còn nằm trong bình diện sinh hoạt bình thường và không phát sinh những hoạt động lạ thường. Chẳng hạn như ơn thâm hiểu cho chúng ta hiểu biết đức tin cách sâu xa hơn, nhưng không ban cho ta một sự mặc khải mới của Chúa.
Bên cạnh các ân huệ vừa kể, là đỉnh cao của các nhân đức, còn có những ơn đặc biệt được gọi là “đặc sủng” (charisma)[13]. Đó là những ơn ban đặc biệt cho phép một vài Kitô hữu làm được điều khác thường, chẳng hạn như chữa bệnh, tiên báo tương lai, nói ngôn ngữ mới lạ. Thánh Tôma bàn đến những ơn này dưới tên gọi gratiae gratis datae (ơn huệ ban không), và kể ra như sau: ngôn sứ, xuất thần, nói tiếng lạ và làm phép lạ[14]. Trong Cựu ước chúng ta thấy kể lại những ơn đặc biệt này ở sách Đệ-nhị-luật (18,1-4) và ở Isaia (28,11) nói rằng vào thời Đấng Mêsia, các sứ giả đức tin sẽ nói ngôn ngữ của những người nghe. Ngôn sứ Gioel (2,28) viết rằng Thiên Chúa sẽ làm nhiều phép lạ cho các tín hữu vào thời Đấng Mêsia, một điều đã xảy ra vào lễ Ngũ tuần. Thánh Phêrô trích dẫn ngôn sứ Gioel: “Trong những ngày ấy Ta sẽ đổ tràn thần khí của Ta xuống trên mọi người. Các con trai con gái của ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, và thanh niên sẽ thấy thị kiến, và các bô lão sẽ được báo mộng, Ta sẽ đổ Thần khí Ta trên các tôi nam tớ nữ của ta và chúng sẽ trở thành ngôn sứ” (Cv 2,17-18). Thánh Phêrô cũng thêm rằng tất cả những ai kêu cầu danh Chúa thì sẽ được cứu rỗi. Trong chương 8 của sách Công vụ, chúng ta đọc thấy những ơn này cũng được ban cho những người ở Samaría.
Trong thư thứ nhất gửi Corintô, chương 12, thánh Phaolô nhắc đến các đặc sủng này. Ông viết rằng mỗi người được Thánh Linh tỏ lộ nhằm ích lợi chung. Thánh Tôma bình giải rằng không ai trong Hội Thánh mà không lãnh nhận ơn sủng Thánh Linh bằng cách này hay cách khác[15]. Các đặc sủng cho thấy rằng Thánh Linh ở với Hội Thánh và với người được ban đặc sủng. Có nhiều ơn ban khác nhau, nhưng chỉ có một Thần khí. Các đặc sủng nhằm ích chung và không ai được khoe khoang ơn huệ đã lãnh nhận được[16]. Vào thời các tông đồ, các ơn được ban thường xuyên, và có hai chức năng: a) Giáo hội còn trẻ và nhiều điều trong việc cử hành bí tích, đạo lý và chức vụ trong Giáo hội chưa được xác định. Các đặc sủng có một năng lực phi thường và bằng chứng của sự hiện diện của Thánh Linh. B) Đối với người ở bên ngoài Giáo hội, các ơn này là một dấu hiệu của Thiên Chúa hiện diện nơi các tín hữu, và giúp đỡ đắc lực cho hoạt động truyền giáo của các tông đồ. Trong những thế kỷ về sau, người ta ít nói đến các đặc sủng, nhưng chúng ta gặp thấy chúng nơi vài vị thánh như là Don Bosco, thánh Pio năm dấu, thánh Gioan Vianney.
[Phụ thêm của người dịch]
Trong tiếng Việt, “đặc sủng” (hoặc “đoàn sủng”) là từ ngữ dùng để dịch từ charisma gốc Hy-lạp, xuất hiện 15 lần trong các thư thánh Phaolô và 1 lần trong thư thứ 1 của Phêrô (1 Pr 4,10), với ý nghĩa phức tạp (khác với charis: ân sủng). Bản dịch Vulgata chỉ duy trì từ charisma 1 lần (1 Cr 12,31), còn những nơi khác thì có lúc dịch là gratia, có lúc dịch là donum hoặc donatio. Vì thế không lạ gì mà nó ít được các nhà thần học lưu ý. Thánh Tôma là một trừ lệ, bởi vì ngài phân biệt hai loại gratia: gratia gratum faciens và gratia gratis data. Đây là một lối chơi chữ trong tiếng Latinh, bởi vì gratia, gratum, gratis đều cùng một gốc tầm nguyên, nhưng lại ám chỉ hai đặc điểm khác nhau.
1. Bản chất
Loại thứ nhất (gratia gratum faciens) giúp cho con người nên thánh thiện (dịch là “thánh sủng” thì khá sát ý, bao gồm cả bảy ân huệ Thánh Linh), cần thiết cho tất cả mọi người sống trong tình nghĩa với Chúa. Loại thứ hai (gratia gratis data) được ban cho một số người không vì công trạng của họ nhưng nhằm đến công ích xã hội. Sự khác biệt quan trọng nằm ở chỗ những người lãnh nhận đặc sủng chưa chắc đã đẹp lòng Chúa và được cứu độ, dựa theo lời cảnh cáo của Mt 7,21-23.
Loại thứ nhất (gratia gratum faciens) giúp cho con người nên thánh thiện (dịch là “thánh sủng” thì khá sát ý, bao gồm cả bảy ân huệ Thánh Linh), cần thiết cho tất cả mọi người sống trong tình nghĩa với Chúa. Loại thứ hai (gratia gratis data) được ban cho một số người không vì công trạng của họ nhưng nhằm đến công ích xã hội. Sự khác biệt quan trọng nằm ở chỗ những người lãnh nhận đặc sủng chưa chắc đã đẹp lòng Chúa và được cứu độ, dựa theo lời cảnh cáo của Mt 7,21-23.
2. Phân loại
Điều thú vị là tác giả đã cung cấp danh mục 9 đặc sủng (dựa theo 1 Cr 12,8-10), và phân tích ý nghĩa của chúng (trong Summa Theologiae I-II, q. 111 và II-II, qq. 171-178) với những tư tưởng độc đáo mà có lẽ thánh Phaolô không nghĩ đến! Thật vậy, các đặc sủng được phân làm ba nhóm: một là để biết (mặc khải), hai là để nói (công bố), ba là để làm (chứng minh).
a) Loại thứ nhất được gọi là mặc khải, tức là ánh sáng trong tâm trí. Trong loại này có thể kể đến ơn ngôn sứ, là một thứ tri thức được Thiên Chúa ban cho trí tuệ của ngôn sứ, như là một thứ giáo huấn. Ơn mặc khải có thể mang ba hình thức: (i) lời dạy (x. 1 Cr 12,8), hay nói tiên tri (x. 1 Cr 12,10); (ii) xuất thần (x. 2 Cr 12,2-4), qua đó con người được Thần khí Chúa đưa lên các thực tại siêu nhiên, thoát ra khỏi giác quan, giống như thị kiến mà ông Edêkiel đã kể lại (Ed 8,3); (iii) phân định thần khí, nghĩa là khả năng phân biệt các thần khí khác nhau, để nhận ra tinh thần nào thúc đẩy một người nào nói hoặc làm điều gì (có phải là tinh thần bác ái, hay là ghen tương).
b) Loại thứ hai bao gồm những ơn thuộc lãnh vực công bố. Thật vậy, khi Thiên Chúa mặc khải cho người nào thì không chỉ nhằm soi sáng cá nhân họ, nhưng còn nhằm soi sáng những người khác, nhờ việc giảng dạy. Vì thế, cần phải có ơn “ngôn ngữ” (nói). Trong loại này, có thể kể đến ơn nói tiếng nước ngoài (xenoglossia), nghĩa là nói được ngôn ngữ của thính giả cho họ hiểu; điều này khác với ơn “glossolalia” được nói đến ở 1 Cr 14,14 (ơn nói tiếng lạ trong buổi cầu nguyện, và cần đến người giải thích). Cũng có thể kể vào loại này ơn giải thích những giấc mơ như trường hợp của ông Giuse (St 40,8) và Đaniel (Đn 5,16).
3/ Loại thứ ba gồm những ơn để minh chứng rằng lời giảng thuyết đến từ Thiên Chúa. Điều này được thực hiện qua các phép lạ, tựa như chữa bệnh. Những ơn này không những thúc đẩy người nghe chấp nhận lời giảng vì nhận ra nguồn gốc siêu nhiên của việc làm, nhưng cũng có thể giúp cho người nghe được củng cố thêm trong đức tin.
Điều thú vị là tác giả đã cung cấp danh mục 9 đặc sủng (dựa theo 1 Cr 12,8-10), và phân tích ý nghĩa của chúng (trong Summa Theologiae I-II, q. 111 và II-II, qq. 171-178) với những tư tưởng độc đáo mà có lẽ thánh Phaolô không nghĩ đến! Thật vậy, các đặc sủng được phân làm ba nhóm: một là để biết (mặc khải), hai là để nói (công bố), ba là để làm (chứng minh).
a) Loại thứ nhất được gọi là mặc khải, tức là ánh sáng trong tâm trí. Trong loại này có thể kể đến ơn ngôn sứ, là một thứ tri thức được Thiên Chúa ban cho trí tuệ của ngôn sứ, như là một thứ giáo huấn. Ơn mặc khải có thể mang ba hình thức: (i) lời dạy (x. 1 Cr 12,8), hay nói tiên tri (x. 1 Cr 12,10); (ii) xuất thần (x. 2 Cr 12,2-4), qua đó con người được Thần khí Chúa đưa lên các thực tại siêu nhiên, thoát ra khỏi giác quan, giống như thị kiến mà ông Edêkiel đã kể lại (Ed 8,3); (iii) phân định thần khí, nghĩa là khả năng phân biệt các thần khí khác nhau, để nhận ra tinh thần nào thúc đẩy một người nào nói hoặc làm điều gì (có phải là tinh thần bác ái, hay là ghen tương).
b) Loại thứ hai bao gồm những ơn thuộc lãnh vực công bố. Thật vậy, khi Thiên Chúa mặc khải cho người nào thì không chỉ nhằm soi sáng cá nhân họ, nhưng còn nhằm soi sáng những người khác, nhờ việc giảng dạy. Vì thế, cần phải có ơn “ngôn ngữ” (nói). Trong loại này, có thể kể đến ơn nói tiếng nước ngoài (xenoglossia), nghĩa là nói được ngôn ngữ của thính giả cho họ hiểu; điều này khác với ơn “glossolalia” được nói đến ở 1 Cr 14,14 (ơn nói tiếng lạ trong buổi cầu nguyện, và cần đến người giải thích). Cũng có thể kể vào loại này ơn giải thích những giấc mơ như trường hợp của ông Giuse (St 40,8) và Đaniel (Đn 5,16).
3/ Loại thứ ba gồm những ơn để minh chứng rằng lời giảng thuyết đến từ Thiên Chúa. Điều này được thực hiện qua các phép lạ, tựa như chữa bệnh. Những ơn này không những thúc đẩy người nghe chấp nhận lời giảng vì nhận ra nguồn gốc siêu nhiên của việc làm, nhưng cũng có thể giúp cho người nghe được củng cố thêm trong đức tin.
IV. Các hoa trái của Thánh Linh
Trong những trang trước đây, chúng ta đã bàn về sự hiện diện năng động của Thánh Linh, mang lại sức mạnh và tình yêu. Trong truyền thống thần học, người ta nói đến các hoa trái của Thánh Linh. Hoa trái là điều mà một cây sản xuất, ngon ngọt tốt đẹp để ăn, thơm tho để thưởng thức. Trong đời sống tâm linh, các hoa trái là sự thân tình của chúng ta với Thiên Chúa, những việc tốt lành mà ta làm[17]. Trong ngôn ngữ thường nhật, người ta nói đến “kết quả” của công việc. Những ai đã làm việc nhiều đều có thể hưởng hoa trái của công việc đã làm; tuy nhiên, cũng có những trường hợp mà hoàn cảnh thuận tiện cho phép người ta hưởng dụng.
Điều tương tự cũng xảy ra trong cuộc sống của ân sủng. Khi nào Thánh Linh dẫn dắt, công việc của chúng ta sản sinh hoa trái siêu nhiên. Trong thư gửi Galat (5,22), thánh Phaolô kể ra như là các hoa trái của Thánh Linh: bác ái, hoan lạc, bình an, kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ, từ tâm, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, khiết tịnh. Khi chú giải đoạn văn này, thánh Tôma giải thích rằng “hoa trái” vừa có nghĩa là điều mà ta đạt được nhờ công lao của mình, như kết quả tự nhiên giống hoa trái của một cây cối. Các hoa trái Thánh được hiều theo nghĩa này và mang lại sự ngon ngọt thích thú. Ý tưởng này được gợi từ sách Diễm ca (2,3): “Hoa trái của nó ngọt trong miệng ta”.
Chúng ta có thể giải thích như thế này: nếu ta yêu mến (bác ái) và cảm nhận được tình yêu này, thì ta thấy vui (hoan lạc), bởi niềm vui là kết quả của tình yêu. Nếu niềm vui của ta trọn vẹn, thì tâm hồn được bình an. Một khi trái tim, được Thánh Linh thúc đẩy, hướng đến Thiên Chúa, thì chúng ta không còn bị thu hút bởi những ước muốn trần tục và không còn bồng bềnh giữa những đối tượng khác nhau, bởi chúng ta sống bên Chúa. Nhờ tình yêu của Thánh Linh, chúng ta sẵn sàn tôn trọng tha nhân. Vì thế thánh Phaolô nói đến kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ. Kiên nhẫn là chúng ta chịu đựng những chán chường mà người khác gây ra mặc dù chúng ta đối xử tử tế với họ. Cuối cùng Thánh Linh hoạt động trong chúng ta, khiến chúng ta cư xử khiêm tốn và không dính bén những của vật chất, trở nên khiết tịnh, và xa cách những gì làm Thánh Linh buồn phiền. Như thế ta nhận thấy hoa trái tốt đẹp của đời sống Kitô giáo nếu chúng ta sống theo các nhân đức và ân huệ Thánh Linh. Các thánh thi Veni Creator Spiritus (Kinh chiều lễ Hiện xuống) và Veni Sancte Spiritus (Ca tiếp liên lễ Hiện xuống) minh hoạ tác động của Thánh Linh nơi các Kitô hữu và sự cần thiết phải kêu cầu Ngài trợ giúp.
V. Luật Mới (lex nova) như là ân huệ của Thánh Linh
Trong số những đề tài thần học mà thánh Tôma đã đổi mới việc nghiên cứu, một điểm quan trọng là Luật Tân ước thay thế cho Luật Cựu ước. Vào cuối thời Trung cổ và trong những thế kỷ kế tiếp, khi mà chủ nghĩa cá nhân bắt đầu thống trị, thần học luân lý tập trung vào đề tài mối tương quan giữa cá nhân người tín hữu với các mệnh lệnh của Thiên Chúa. Một vấn đề trọng tâm là phân định trong một trường hợp cụ thể ta có phải tuân giữ luật lệ nữa không. Môn giải nố (casuistica) nghiên cứu những chi tiết nhỏ nhặt của các trường hợp đặc thù. Từ đó nảy sinh các hệ thống thần học luân lý của thuyết cái nhiên (probabilismus cái nhiên đơn giản), thuyết cái nhiên hơn (ý kiến có nhiều lý chứng hơn: probabiliorismus), thuyết nghiêm nhặt. Sang thế kỷ XX, sau công đồng Vaticanô II, phần lớn cách thức đối diện vấn đề đã thay đổi. Nhiều tác giả tìm các giải pháp khác, chẳng hạn như du nhập phương pháp tương xứng giữa các điều thiện, hoặc giải pháp tiền-luân-lý của các hành vi của chúng ta, và trở thành hành vi luân lý khi ý hướng xen vào. Thông điệp Veritatis splendor đã gạt bỏ một vài ý kiến đó.
Khảo luận của thánh Tôma về luật pháp có thể giúp chúng ta nhận ra tầm quan trọng của vấn đề. Thánh Tôma định nghĩa luật như là một lệnh được thiết lập nhờ lý trí bởi người có trách nhiệm trong cộng đồng và nhắm tới điều thiện hảo chung (quaedam rationis ordinatio ad bonum commune, ab eo qui curam communitatis habet promulgata: STh I-II, 90, a.4). Mục đích của luật pháp là giúp cho các phần tử cộng đồng trở nên đức hạnh. Thánh Tôma phân biệt nhiều cấp độ luật pháp: luật hằng cửu, luật tự nhiên và luật dân sự thiết định. Trong lãnh vực mặc khải, chúng ta có luật Thiên Chúa thiết định, gồm luật Cựu ước và luật Tân ước.
Đang khi mà ích lợi và sự cần thiết của luật dân sự là chuyện quá rõ ràng, thì một câu hỏi được đặt lên liên quan đến sự cần thiết của một luật Thiên Chúa thiết định. Câu trả lời đơn giản như thế này: đối tượng cùng đích của Kitô hữu – cuộc sống với Thiên Chúa và hưởng kiến thánh nhan – vượt quá khả năng tự nhiên của con người. Vì thế con người cần đến những chỉ dẫn về con đường phải theo và những việc phải làm, nhất là khi con người dễ lầm lạc. Các luật nhân-định điều chỉnh cách cư xử bên ngoài của con người, chứ không quy định cách suy tư và tâm tình của con người, là điều rất quan trọng cho một cuộc đời đức hạnh. Luật Cũ (Thập giới) được trao cho Israel thì phù hợp với điều lý trí công minh ấn định cho việc xử sự trong xã hội, nhưng nó không cấp ban sức mạnh để tuân giữ. Vì thế cần đến ân sủng Thánh Linh do Chúa Kitô đã lập công nhờ cuộc tử nạn của mình. Xét vì hy tế của Đức Kitô đã thay thế các hy tế và phụng tự trong đền thờ của Cựu ước, cho nên Luật cũ cũng đã được thay thế dựa trên thư Hipri (7,12): “chức tư tế thay đổi thì luật cũng phải thay đổi”[18].
Trọng tâm của Luật Mới là hy tế của Đức Kitô như là hành vi yêu thương cao quý nhất. Bởi vậy, tình yêu trở thành nền tảng và nguồn mạch của đời sống Kitô giáo. Vì thế, Luật Mới cần được đặt nền trên tình yêu. Luật Cũ nhắm tới sự thịnh vượng trên đời này, những tài sản trần thế và quy định các hành vi bên ngoài. Đối lại, Luật Mới liên quan đến các điều thiện tinh thần và hướng tới đời sống nội tại của các tín hữu. Mục tiêu của Luật Cũ là dẫn Israel vâng theo ý Chúa, được diễn tả qua việc đe dọa hình phạt. Ngược lại, Luật Mới dẫn các Kitô hữu tuân hành ý Chúa vì tình yêu, tình yêu được trút đổ xuống tâm hồn do Thánh Linh[19]. Luật Mới đã được chứa đựng cách ám tàng (sub figura) trong Luật Cũ, xét về những chân lý phải tin (credenda) cũng như xét về các chỉ thị luân lý, bởi vì những điểm chính yếu đã được gói ghém trong Luật Cũ rồi[20].
Bàn về đặc trưng của Luật Mới, thánh Tôma viết rằng bản chất của sự vật được xác định bởi điều gì quan trọng nhất của nó. Dựa theo thư thánh Phaolô gửi các tin hữu Rôma, tác giả viết rằng “điều quan trọng nhất trong Luật Mới là ân sủng của Thánh Linh được ban cho những kẻ tin kính Đức Kitô” (Điều này được lặp đi lặp lại nhiều lần: Principaliter lex nova est ipsa gratia Spiritus Sancti, quae datur Christi fidelibus. xc STh, I-II, q. 106, a. 1; 106, a. 2; 107, a. 1, ad 2m et 3um; q. 108, a. 1). Thánh Phaolô không ngần ngại gắn liền từ ngữ luật với thần khí (lex spiritus), chẳng hạn như ở Rm 8,2: “Luật của thần khí sự sống trong Đức Kitô Giêsu đã giải thoát tôi không luật của tội lỗi và sự chết”. Thánh Augustinô nêu bật rằng luật của đức tin Kitô giáo được viết trong tâm khảm của các tín hữu chứ không còn viết trên bia đá nữa. Luật của Thiên Chúa ghi khắc trong con tim các tín hữu chính là sự hiện diện của Thánh Linh[21]. Luật Mới bao gồm một số điều nhằm chuẩn bị lãnh nhận ân sủng Thánh Linh và một số khác giúp chúng ta cư xử hợp với cuộc đời theo Thánh. Các văn bản Tân ước và đạo lý đức tin là những dụng cụ chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ân sủng Thánh Linh, hoặc chỉ dẫn chúng biết cách sử dụng ân sủng. Chúng mời gọi chúng ta hãy bớt lo lắng đến chuyện thế gian, để đón nhận ân sủng Chúa Kitô nhiều hơn nữa.
Một câu hỏi: Xét theo lịch sử, tại sao Luật Mới lại được ban hành muộn như vậy? (quaestio 106, art. 3) Thánh Tôma trả lời rằng bởi vì nó tùy thuộc vào hy tế Đức Kitô hiến mình trên thập giá. Ngoài ra, điều hoàn hảo cần được chuẩn bị bằng sự bất toàn. Ngoài ra, sau khi phạm tội, con người dễ nhận ra sự yếu đuối của mình và nhìn nhận sự cần thiết của ân sủng. Để lãnh nhận Luật Mới có hiệu quả, nhân loại cần nhìn nhận mình yếu kém và thiếu đức hạnh của mình[22]. Một câu hỏi khác: Luật Mới sẽ có giá trị mãi, hay là sẽ xuất hiện một kỷ nguyên khác, như Gioakim de Fiore loan báo?[23] Thánh Tôma trả lời: sẽ không có kỷ nguyên nào hoàn hảo hơn là kỷ nguyên của Đức Kitô. Đành rằng ân sủng của Thánh Linh có thể được ban dồi dào nơi người này hơn là người khác, nhưng kỷ nguyên mới của Thánh Linh không cần thiết, bởi vì Luật Mới vừa là của Đức Kitô vừa là của Thánh Linh (quaestio 106, art. 4)
Cựu ước cũng có cùng mục tiêu như là Tân ước, đó là dẫn đưa con người về với Thiên Chúa; nếu Cựu ước có vai trò chuẩn bị, thì Tân ước là luật của sự hoàn hảo bởi vì là luật của tình yêu. Ngoài ra, nó bổ túc cho những gì thiếu sót trong Cựu ước liên quan đến các hành vi nội tại và sự hoàn hảo luận lý. Luật Mới có ít lệnh truyền hơn Luật Cũ, nhưng xét vì ngăn cấm vài hành vi nội tại cho nên sự tuân giữ trở nên khó khăn hơn, mặc dù đối với những kẻ nào yêu mến Thiên Chúa thì mọi sự đều dễ dàng[24].
Thánh Phaolô viết rằng: ở đâu có Thần khí thì ở đấy có tự do[25]; phải chăng vì thế ta có thể khẳng định rằng Luật Mới cho phép được tự do hoàn toàn, không đòi hỏi một hành vi ngoại tại nào nữa (tựa như là lãnh nhận các bí tích)? Thánh Tôma trả lời rằng đúng là cốt yếu của Luật Mới hệ ở ân sủng của Thánh Linh tác động bằng tình yêu; tuy nhiên xét vì chúng ta là con người và Đức Giêsu trong cuộc đời trần thế, đã thiết lập ân sủng này vì chúng ta, cho nên ân sủng được ban cho chúng ta qua một vài hành vi bên ngoài, chẳng hạn như qua các bí tích. Ân sủng Thánh Linh ở trong chúng ta tựa như một tập quán, nhờ thế việc chu toàn ý Chúa ra như ra như là tuân theo một bản năng một cách dễ dàng và vui tươi. Nhờ được ân sủng này giúp đỡ từ bên trong, chúng ta bắt thân xác của mình suy phục tinh thần, và thực hành các hành vi ngoại tại phù hợp với tinh thần. Thánh Tôma nhấn mạnh rằng ân sủng mà Thánh Linh ban cho chúng ta trở thành một thứ tâm thức nội tại, nhờ thế giúp chúng ta hành động một cách tự phát theo những linh hứng của Thánh Linh. Vì thế Luật Mới được gọi là “luật của tự do” bởi vì nó cho chúng ta có khả năng hành động theo sự thúc giục của Thánh Linh tựa hồ như một bản năng nội tại (ex interiori instinctu), chứ không do sự cưỡng bách từ bên ngoài (I-II, q. 108, a. 1, ad 2).
Kết luận
Đối với Kitô giáo, đời sống tâm linh (vita spiritualis) có nghĩa là sống theo sự hướng dẫn của Thánh Linh (Rm 8; Gl 3,3; 5,13.16-25; 1 Cr 3,1-2). Theo thánh Tôma, con người “thần khí” (homo spiritualis) là kẻ sống hòa hợp với Thần khí đến nỗi ra như Thần khí trở thành “bản năng hoạt động” (instinctus Spiritus Sancti: STh I-II, 68, 2, ad 3m) nơi họ. Phàm ai để cho Thánh Linh hướng dẫn thì không những sẽ cảm nhận tình yêu và các ân huệ của Ngài, mà còn được hưởng tự do của con cái Chúa (2 Cr 3,17). Nhờ để cho Thánh Linh hướng dẫn, người tín hữu vượt lên sự xung khắc giữa luật pháp và tự do. Thực vậy, nhiều tác giả vẫn khuyên nhủ hãy trung thành với lề luật Chúa để nên trọn lành, bởi vì họ sợ rằng nếu đề cao tự do quá đáng thì sẽ rơi vào tháo thứ! Tuy nhiên sự xung khắc giữa luật pháp và tự do chỉ xảy ra khi luật pháp được coi như yếu tố áp đặt từ bên ngoài. Đối với thánh Tôma, Thánh Linh được ban để giúp ta thấm nhuần luật Chúa, không còn coi như luật Chúa như là cái gì áp đặt tự bên ngoài nhưng trở thành thâm tín nội tâm [26]. Đến mức độ này, có thể nói được rằng con người thần khí trở thành luật cho chính mình: “ipsi sibi sunt lex” (Rm 2,14-15: I-II, q. 96, a. 5, ad 1m).
Phụ thêm
Thư mục về Thần-khí-luận theo thánh Tôma rất dồi dào, có thể tìm thấy trong Arnaldo Pedrini, Bibliografía tomistica sulla pneumatologia, Città del Vaticano, 1994 (“Studi tomistici 54”), 76 trang, gồm các sách báo xuất bản từ 1870 đến 1993.
Trong Thời sự Thần học, số 76 (tháng 7/2017), có hai bài viết liên quan đến đề tài: Javier Sesé, Các ân huệ Thánh Linh và con đường nên thánh, trang 55-86. Raffaele Calabro, Các hoa trái Thánh Linh, trang 87-106.
___________
[1] [ND] Đoạn này được bổ túc với bài viết của Jean Pierre Torrell, Saint Thomas Aquinas Spiritual Master The Catholic University of America Press, Washington DC, 2003, The Catholic University of America Press, Washington DC, 2003 (Chapter VII: To speak of the Holy Spirit), p. 153-174.
[2] Đây là một câu nói được thánh Tôma gán cho thánh Ambrosiô, nhưng ngày nay các nhà phê bình cho rằng của một tác giả vô danh (được Erasmus đặt tên là Ambrosiaster). Câu nói này được lặp lại 15 lần trong các tác phẩm của thánh Tôma, phần lớn trong chú giải Sententiae và chú giải Tin Mừng Gioan.
[3] Ngoài ra cũng nên thêm: Chú giải thư thứ nhất gửi Corintô (chương 12) về các đặc sủng; Chú giải thư gửi Galát (chương 5) về tự do thần khí, như sẽ thấy dưới đây.
[4] Summa Theologiae, I-II, 102, 4 ad 10; 103, 3 ad 4.
[5] [ND] Trong các sách kinh và giáo lý ở Việt Nam, chúng ta đọc thấy “bảy ơn Chúa Thánh Thần”, nhưng nguyên gốc Latinh là “dona”, có nghĩa là “quà tặng” (don tiếng Pháp, gift tiếng Anh). Ngoài ra việc dịch thuật tên gọi mỗi ân huệ cũng thiếu thống nhất. Chúng tôi tạm đặt tên như sau: cao minh (thay vì khôn ngoan: sapientia); thâm hiểu (intellectus); minh luận (scientia); chỉ giáo (consilium); sùng hiếu (pietas); hùng mạnh (fortitudo); kính sợ Chúa (timor Domini).
[6] I-II, 68, 8.
[7] II-II, 9,2.
[8] II-II, 45.
[9] Sách Khôn ngoan 9,4.
[10] II-II, 52.
[11] II-II, 121, 1.
[12] II-II, 139.
[13] Cfr. S. Th. II-II, q. 176 y ss.
[14] II-II, qq.171-178.
[15] Super 1 Cor., c. 12, n. 725.
[16] x. S.T. II-II, 171-175.
[17] S Th. I-II, q. 70. [ND] Nên biết là trong nguyên bản Hy lạp của Tân ước, thánh Phaolô chỉ nói đến “hoa trái của Thánh Linh” (ở số ít) được diễn tả ra 9 nhân đức. Bản dịch La tinh Vulgata đề cập đến “Mười hai hoa trái” (ở số nhiều), có lẽ vì muốn móc nối với con số 12 hoa quả quanh năm của cây hằng sống được đề cập trong sách Khải huyền (22,1-2), và như vậy đã thêm vào ba hoa trái, với danh sách như sau: “bác ái, hoan lạc, bình an, kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ, từ tâm, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, khiết tịnh”.
[18] Chú thích của người dịch. Trong Tổng luận thần học, thánh Tôma đã dành ba quaestiones 106-108 trong Prima Secundae để bàn về Luật Mới, xoay quanh ba điểm: 1/ Khái niệm. 2/ Đối chiếu Luật Mới với Luật Cũ. 3/ Nội dung của Luật Mới. Tác giả cũng trưng dẫn nhiều tên gọi khác nhau của nó trong Tân ước: Luật Mới là “luật Tin mừng”, bởi vì được chứa trong Tin mừng; “luật của đức tin” (I-II, q.106, a.3; xc. Rm 3,27), “luật của ân sủng” (ibid), “luật của chân lý” (I-II, q. 107, a. 2), “luật của sự trọn hảo” (I-II, q. 107, a. 3), “luật của tình yêu” (I-II, q. 107, a. 1, ad 2), “luật của tự do” (I-II, q. 108, aa. 1,2,4; dựa theo Gc 1,25; 2,2; Gl 2,4.31; 5,30).
[19] S Th I-II, 91, 5: “Lex nova facit hoc per amorem qui in cordibus nostris infunditur per gratiam Christi quae in nova lege confertur”.
[20] S Th I-II, 107, 3 ad 1.
[21] De spiritu et littera.
[22] In Epist. ad Galatas, c. 4, lec 7.
[23] Chú thích của người dịch. Vào hồi thế kỷ XIII, Giáo hội phải đương đầu với nhóm Thần khí (Spirituales) chịu ảnh hưởng của viện phụ Joachim Fiore (k.1130-1202), cho rằng kỷ nguyên của Đức Kitô đã kết thúc, nhường chỗ cho kỷ nguyên của Thần khí, trong đó Hội thánh được cai quản không phải bởi hàng phẩm trật nhưng là bởi những con người thần khí.
[24] S. Th I-II, 107, 4 “... non sunt gravia amanti”.
[25] 2 Cr. 3,17.
[26] S Th II-II, 93, q. 6, ad 1m: “Spirituales viri non sunt sub lege: quia per caritatem, quam Spiritus Sanctus cordibus eorum infundit, voluntarie id quod legis est, implent”.