HUẤN GIÁO VỀ CẦU NGUYỆN THEO THÁNH TÔMA

 Thời sự Thần học - Số 101, tháng 08/2023, tr. 132-161.

_Phan Tấn Thành_

Nhập đề: Đề tài cầu nguyện trong các tác phẩm của thánh Tôma
I. Thần học về cầu nguyện (STh II-II, q.83)
  A. Nội dung
  B. Nhận xét: 1/ Định nghĩa. 2/ Sự cần thiết. 3/ Mẫu kinh cầu nguyện. 4/ Vài vấn đề thực tiễn.
II. Hành trình cầu nguyện, hướng đến contemplatio (STh II-II, q. 180)
  A. Những ý nghĩa của contemplatio: 1/ Trong văn chương. 2/ Trong thần học Kitô giáo. 3/ Trong các tác phẩm của thánh Tôma
  B. Thực hành contemplatio. 1/ Những công tác chuẩn bị. 2/ Tiến trình: lectio, meditatio, oratio, contemplatio
Kết luận: Đời chiêm niệm và đời hoạt động

Nhập đề

Trong số báo này, đã có những bài viết về thánh Tôma như là con người cầu nguyện (cầu nguyện chính là trường thần học của ngài), cũng như những kinh nguyện do ngài sáng tác (nổi tiếng nhất là các thánh thi và lời nguyện của Lễ kính Mình Thánh Chúa). Thiết tưởng không cần nhắc lại những chi tiết đó nữa. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn trình bày tư tưởng thần học của ngài về việc cầu nguyện.

Đề tài cầu nguyện được thánh Tôma Aquinô đề cập nhiều lần trong các tác phẩm khác nhau. Chúng tôi chỉ ghi nhận vài chỗ đáng chú ý[1].

1/ Chú giải Sententiae của Petrus Lombardus. Lib. IV, distinctio 15, quaestio 4

2/ De Veritate quaestio 6, art. 6.

3/ Summa Contra Gentiles, lib. III, c. 95-96.

4/ Các quyển chú giải Kinh thánh: Các thư thánh Phaolô (Rm 8,26-27; 1 Tx 5,17; 1 Cr 14,13-15; Pl 4,6; 1 Tm 2,1-8); Tin mừng Matthêu (8,5-15: Chú giải Kinh Lạy Cha); Tin mừng Gioan (Ga 16,23).

5/ Huấn giáo về Kinh Lạy Cha

6/ Summa Theologiae. Trong thuộc phần luân lý chuyên biệt (II-IIae), thánh Tôma bàn về việc cầu nguyện ở hai chỗ: Một, ở quaestio 83, khi đề cập đến những hành vi của nhân đức thờ phượng. Hai, ở quaestio 180, khi bàn về đời sống chiêm niệm (vita contemplativa), ta có thể tìm thấy phần nào hành trình dẫn tới sự chiêm niệm (contemplatio). Ngoài ra, ở trong phần Ba, thiết tưởng cần nhắc đến q. 21 bàn về việc cầu nguyện của Đức Giêsu, đó là chưa kể những điều liên quan đến phụng vụ và các bí tích[2].

Bài này chỉ giới hạn vào việc tìm hiểu tư tưởng của thánh Tôma được trình bày trong II-IIae vừa nói trên, được chia làm hai phần: 1/ Thần học về cầu nguyện. 2/ Hành trình cầu nguyện. Có thể tạm ví như khía cạnh tĩnh và khía cạnh động của việc cầu nguyện. Trong phần kết luận chúng tôi xin nói qua về mối tương quan giữa đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động.

I. Thần học về cầu nguyện

Tác giả đã dành ra 17 tiết mục (articuli, dài nhất trong toàn tác phẩm) của quaestio 83 (phần II-II) để bàn về những khía cạnh khác nhau của việc cầu nguyện: bản chẩt, sự cần thiết, đối tượng, cũng sự phân biệt các loại. Trước hết, chúng ta hãy rảo qua một vòng nội dung, sau đó chúng tôi sẽ dừng lại ở vài nhận xét có liên quan đặc biệt đến thần học tín lý.
A. Nội dung

Thánh Tôma lập luận theo phương pháp biện bác (disputatio) của kinh viện đương thời : tìm chân lý qua những cuộc đối chất giữa các vấn nạn. Tuy nhiên, khi trình bày ý kiến của mình, thánh Tôma không chỉ dựa trên lý luận nhưng chủ yếu là dựa trên đạo lý của Kinh Thánh và các giáo phụ. Cách riêng, khi phân tích cấu trúc, ta thấy kinh Lạy Cha được đặt ở trung tâm (mục số 9), với 8 mục đi trước và 8 mục đi sau.

Việc cầu nguyện được bàn như một hành vi của nhân đức thờ phượng (religio: II-II, qq. 81-100), nghĩa là nhân đức điều hành những bổn phận của thụ tạo đối với Thiên Chúa. Đã hơn một lần có người nêu thắc mắc: tại sao xếp việc cầu nguyện vào nhân đức thờ phượng, mà không xếp vào các nhân đức hướng Chúa? Như sẽ thấy sau, việc cầu nguyện đòi hỏi sự thực hành ba nhân đức tin-cậy-mến; tuy nhiên, thánh Tôma xếp cầu nguyện vào nhân đức thờ phượng, một thành phần của nhân đức công bình (là nhân đức nhân bản) bởi vì cầu nguyện là một hành động tự nhiên của tất cả mọi nhân sinh, chứ không riêng gì của các Kitô hữu.

Trong 17 mục (articuli) của quaestio 83, thánh Tôma đã lần lượt nêu lên những câu hỏi sau đây :

1/ Bản chất : cầu nguyện là gì ?

- Định nghĩa. Nó là một tác động của lý trí hay của tâm tình (ước muốn)? (a. 1)

- Việc cầu nguyện có cần thiết, hữu ích không (a. 2)? có phải là một hành vi của nhân đức thờ phượng không (a. 3)?

2/ Những yếu tố cấu thành việc cầu nguyện

- Cầu nguyện với ai: chỉ có thể cầu nguyện với Chúa mà thôi hay sao (a. 4)?

- Phải cầu xin điều gì: có cần xin điều gì cụ thể khi cầu nguyện không (a. 5)? Có được xin những điều thuộc trần thế không (a. 6)? Có được cầu xin cho người khác không (a. 7)? Có buộc phải cầu nguyện cho kẻ thù không (a. 8)?

3/ Khuôn mẫu của việc cầu nguyện : Kinh Lạy Cha (a. 9)

4/ Chủ thể cầu nguyện: ai có thể cầu nguyện? Chỉ có con người mới cầu nguyện hay sao? loài động vật có cầu nguyện không (a. 10)? Các thánh trên thiên đàng có cầu nguyện cho chúng ta không (a. 11)?

5/ Cách thức cầu nguyện : cầu nguyện như thế nào?

- Có cần phải dùng lời lẽ không (a. 12)? có cần chú ý không (a. 13)? có cần lâu dài, liên tục không (a. 14)?

6/ Công hiệu của việc cầu nguyện. Việc cầu nguyện có thêm công phúc không (a. 15)? Chúa có nhậm lời cầu xin của kẻ tội lỗi không (a. 16)?

7/ Phân loại (a. 17). Dựa theo 1 Tm 2,1 và truyền thống phụng vụ, tác giả kể ra bốn thứ ý chỉ cầu nguyện : thờ lạy (oratio: ascensus ad Deum), tạ ơn về những điều quá khứ (gratiarum actio), thỉnh nguyện về những điều tương lai (postulatio), van nài dựa vào công nghiệp của Đức Kitô (obsecratio).

B. Nhận xét

Sau vài ghi nhận chung quanh vấn đề từ ngữ, chúng tôi sẽ chú ý đến những vấn nạn thần học tín lý liên quan đến sự cần thiết và công hiệu của việc cầu nguyện.

1. Định nghĩa cầu nguyện

Lịch sử Kitô giáo đã ghi nhận khá nhiều định nghĩa về cầu nguyện, và sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo đã trích dẫn vài thí dụ[3]. Điều này cho thấy có nhiều quan điểm khác nhau về cầu nguyện. Ngay chuyện từ ngữ cũng đã đủ dẫn đến nhiều ý kiến khác nhau rồi. Thật vậy, trong tiếng Hán Việt, hai từ “cầu” và “nguyện” tự nó chưa hàm xúc ý nghĩa tôn giáo, bởi vì được áp dụng cả trong cuộc sống hàng ngày. Cầu có nghĩa là: tìm kiếm, xin xỏ, mong ước, (chẳng hạn như trong các cụm từ: yêu cầu, thỉnh cầu, cầu hôn). Nguyện có nghĩa là: mong đợi, mong mỏi trông đợi, ước muốn (nguyện ước); và khi đã đạt được điều mong đợi thì gọi “toại nguyện” (hay phỉ nguyền). Như vậy, cầu nguyện có nghĩa là ước mong trông đợi. Một cách tương tự như vậy, trong tiếng Latinh, danh từ oratio tự nó chỉ là một lời phát biểu (chẳng hạn bài diễn văn; từ đó orator là nhà hùng biện). Trong tiếng Pháp, prier (động từ) và prière (danh từ) tự nó chỉ có nghĩa là yêu cầu, thỉnh cầu. Vấn đề trở nên rắc rối hơn nữa khi tiếng Pháp (cũng như tiếng Ý) phân biệt oraison (tâm nguyện) khác với prière (khẩu nguyện). Một cách tương tự như vậy, đôi khi trong tiếng Latinh, oratio chỉ là một hình thức cầu nguyện, khác với meditatio và contemplatio.

Ở đây thánh Tôma hiểu oratio theo một nghĩa thông thường là: “nói chuyện với Chúa”, còn contemplatio sẽ được bàn ở chỗ khác (mà chúng ta sẽ trở lại trong phần thứ hai của bài viết). Tác giả không đưa ra một định nghĩa riêng, mà chỉ lấy lại ý kiến cổ truyền, hoặc dựa theo tầm nguyên hoặc dựa theo khái niệm thần học:

a- Dựa theo tầm nguyên của ông Cassiođôrô : “oratio dicitur quasi oris ratio” . Việc truy cứu tầm nguyên tiếng Latinh chẳng có ý nghĩa gì đối với tiếng Việt, nhưng được thánh Tôma sử dụng để cho thấy rằng cầu nguyện là một hành vi của lý trí (ratio). Triết học phân biệt hai cấp độ của lý trí: lý trí thuần lý (speculativa) hoặc lý thuyết, tìm cách phát biểu một chân lý; còn lý trí thực tiễn (practica) tìm cách đạt được một kết quả cụ thể nào đó. Việc cầu nguyện là một hành vi của lý trí thực tiễn: nó không phải là thuần tuý tâm tình cũng không phải là thuần tuý suy tư, nhưng kết hợp cả hai. Dù sao, nên ghi nhận sự khác biệt giữa thánh Tôma và thánh Bonaventura. Vị thánh dòng Phan-sinh đặt nặng yếu tố tâm tình trong việc cầu nguyện: oratio est pius affectus mentis in Deum (Sent. III, d. 17, q. 3, arg. 2).

b- Dựa theo khái niệm thần học, lấy từ thánh Augustinô (đúng ra là của Raban Maur +856): oratio petitio quaedam est; và của thánh Gioan Đamascênô (đúng ra là của Evagrius): oratio est ascensus intellectus in Deum ; oratio est petitio decentium a Deo. Dựa vào uy tín của những tác giả cổ điển, thánh Tôma quan niệm rằng cầu nguyện là một cuộc đối thoại với Thiên Chúa; do đó là một hành vi của lý trí thực tiễn, nghĩa là lời phát biểu một điều của lòng ao ước. Theo một nghĩa chặt chẽ, cầu nguyện (oratio) được hiểu về việc cầu xin (petitio), chứ không đến những khía cạnh khác như là chúc tụng, ngợi khen.

2. Sự cần thiết của cầu nguyện

Bàn về sự cần thiết của việc cầu nguyện, thánh Tôma tìm cách trả lời vấn nạn: “Chúa biết và an bài tất cả mọi sự rồi, vì vậy ta đâu cần phải xin xỏ chi nữa ?”

Câu trả lời như thế này: khi cầu nguyện, không phải là chúng ta nhắc nhở Thiên Chúa điều mà Ngài không biết. Đúng ra, chúng ta gợi ý cho chính mình, để ý thức rằng mình cần đến Thiên Chúa. Ngoài ra, chúng ta không yêu cầu Thiên Chúa thay đổi kế hoạch theo điều chúng ta mong đợi, cho bằng cầu xin cho biết chấp nhận điều mà Ngài đã an bài xếp đặt cho chúng ta. Nói cách khác, cầu nguyện là mở cửa lòng mình để hợp tác với chương trình của Thiên Chúa.

Thực ra, đàng sau câu trả lời ngắn gọn này, đã có khá nhiều vấn nạn được nêu lên liên quan đến sự cần thiết của việc cầu nguyện gắn liền với thần học về Chúa quan phòng. Những vấn nạn này đã có từ các triết gia Hy-lạp và phần nào cũng gặp thấy nơi nhiều tôn giáo

a- Những vấn nạn chống lại sự cần thiết của việc cầu nguyện.

Thánh Tôma tóm tắt các sai lầm vào ba điểm như sau:

(i) Thượng đế không quan tâm đến công chuyện trần thế. Mọi sự trên đời này xảy ra do tình cờ may rủi. Vì thế cầu nguyện chẳng có ích lợi gì. Đây là chủ trương của Epicurio.

(ii) Thuyết tất định: mọi sự trên trời dưới đất đều đã được xếp đặt cả rồi. Không thể nào thay đổi mệnh trời. Kết luận cũng như trên, nghĩa là cầu nguyện là điều vô ích. Đây là chủ trương của Averroes.

(iii) Đối lại với hai ý kiến trên đây, thuyết thứ ba chấp nhận rằng Thượng đế quan tâm đến chúng ta, và ngài có thể thay đổi ý kiến do lời chúng ta cầu nguyện. Ý kiến thứ ba được gán cho người Ai-cập và cho ông Avicenna. Như vậy, nhóm này chấp nhận giá trị của việc cầu nguyện.Tuy vậy, thánh Tôma nhận thấy cần phải sửa đổi quan niệm về Thiên Chúa, tránh hình dung Ngài theo khuôn khổ thiển cận của loài người. Trong tương quan xã hội, chúng ta bộc lộ cho bạn bè các tâm tư ý nghĩ, để họ biết cảm nghĩ và ước muốn của mình, và nếu có thể thì xin họ tìm cách đáp ứng nguyện vọng. Nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải như vậy: Chúa biết hết những nhu cầu của ta rồi (xc. Mt 6,32). Khi cầu nguyện, không phải là chúng ta trình bày cho Chúa biết những ước nguyện của mình, nhưng là để chúng ta ý thức hơn rằng mình cần Chúa giúp đỡ. Mặt khác, khi cầu nguyện, chúng ta không mong làm cho Chúa thay đổi lập trường, cho bằng xin cho chúng ta biết đi theo kế hoạch của Chúa.

b- Thực chất của việc cầu nguyện: hợp tác với chương trình của Chúa.

Chúng ta có thể tóm lại vài chân lý đã được đề cập trong thần học về sự quan phòng (I pars, q. 22).

(i) Thiên Chúa là người cha, người bạn của chúng ta, và Ngài muốn cho chúng ta hãy tín thác vào Ngài. Nhưng chúng ta đừng quên rằng Ngài là “Thượng đế”: Ngài quan phòng xếp đặt mọi sự theo cách thức thích hợp với bản tính của mỗi vật: loài vô tri thì khác, loài có lý trí tự do thì khác. Ngài là nguyên nhân đệ nhất của tất cả mọi sự, nhưng Ngài cũng muốn chúng ta trở thành nguyên nhân đệ nhị trong việc điều hành vũ trụ. Ngài ban cho hạt giống trổ sinh thóc gạo nuôi sống con người, nhưng Ngài cũng muốn cho con người gieo giống, vun xới trồng trọt cho đến khi lúa thóc trổ bông, và chúng ta gặt về để nấu cơm. Cầu nguyện là xin Chúa cho chúng ta hiểu biết đường lối của Ngài, và sẵn sàng hợp tác với ơn Chúa. Nói thì đơn giản, nhưng khi thực hành mới thấy phức tạp! Chúng ta đừng hình dung rằng Chúa với ta hành động theo kiểu đồng lao hợp tác: bao nhiêu phần trăm là của Chúa, bao nhiêu phần trăm là của ta! Không phải thế! Đây là sự hợp tác giữa nguyên nhân đệ nhất và nguyên nhân đệ nhị: trăm phần trăm là của Chúa, và trăm phần trăm là của ta, nhưng mà ở trên hai bình diện khác nhau. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo số 2834 giải thích câu châm ngôn của thánh Biển-đức (Ora et labora: cầu nguyện và làm việc) như thế này: “Anh em hãy cầu nguyện như thể tất cả tùy thuộc vào Thiên Chúa, và hãy làm việc như thể tất cả tùy thuộc vào anh em”. Chúa Giêsu đã nói: “Không có Thầy, các con không thể làm gì được” (Ga 15,5); nhưng đồng thời Người cũng trao cho chúng ta những nén bạc để sinh lợi như những tôi tớ trung tín và khôn ngoan, và chúng ta sẽ chịu trách nhiệm về việc sử dụng chúng (Mt 25,14-30)!

(ii) Vì lý do đó mà việc cầu nguyện đòi hỏi sự sử dụng lý trí, dù là lý trí thực tiễn như đã nói trên đây: chúng ta cần phải vận dụng lý trí để khám phá đường lối mà Chúa muốn dành cho ta. Một trong những công tác của lý trí là phải biện phân xem điều gì phù hợp với ý Chúa, và điều gì không. Thánh Tôma đã dành hai mục 5 và 6 để trả lời cho các câu hỏi: có được phép cầu xin một điều gì cụ thể không? Có được xin những của cải vật chất không? Câu trả lời là được; nhưng mà cần phải đắn đo suy xét theo bậc thang các giá trị: điều gì tuyệt đối cần thiết và điều gì không cần thiết. Đến đây ta mới thấu hiểu ý nghĩa của lời thánh Phaolô ở Rm 8, 26 (Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải): cần Thánh Linh đến giúp đỡ thì chúng ta mới nhận ra được điều gì ích lợi cho phần rỗi của chúng ta, và điều gì trái nghịch với cứu cánh tối hậu của cuộc đời. Thánh Linh giúp chúng ta phân định mọi sự trong đức ái.

(iii) Trong chương trình của Thiên Chúa, như đã nói trên đây, Ngài muốn cho loài người cộng tác như là các nguyên nhân đệ nhị. Trong bối cảnh này, chúng ta đừng bỏ qua tình liên đới với đồng loại. Chúng ta đừng chỉ nghĩ đến các nhu cầu của mình mà thôi, nhưng hãy nghĩ tới tha nhân nữa. Lời cầu nguyện của chúng ta trở thành lời chuyển cầu cho tha nhân. Dĩ nhiên, chúng ta cũng tin tưởng nơi lời chuyển cầu họ, đặc biệt là của các phúc nhân trên trời, theo tinh thần hiệp thông giữa các thánh (communio sanctorum). Điều này được bàn trong các mục 7, 8, 11.

3. Kinh nguyện chuẩn mực: Kinh Lạy Cha

Khi chú giải kinh Lạy Cha (mục 9), thánh Tôma cho thấy rằng đây là một lời cầu nguyện hoàn hảo nhất, bởi vì chúng ta học biết phải ước ao cầu xin những điều gì tốt lành, cũng như thứ tự ưu tiên của những điều ao ước nữa. Các điều cầu xin được sắp xếp theo hệ trật như sau: trước hết là nghĩ đến cứu cánh (2 điều đầu tiên) ; kế đến là những phương thế để đạt cứu cánh (5 điều còn lại).

a) Cứu cánh của chúng ta là Thiên Chúa. Vì thế chúng ta mong được yêu mến Ngài, mong cho vinh quang của Ngài được tỏ rạng, và mong được chia sẻ vinh quang của Ngài.

b) Tiếp đến, chúng ta xin những gì dẫn đưa chúng ta đến cứu cánh.

- Một cách tích cực, bằng cách tuân theo ý Chúa (các nhân đức hướng Chúa), và những dụng cụ cần thiết trên đường lữ hành (bánh vật chất cũng như bánh Thánh Thể).

- Một cách tiêu cực, xin Chúa cất đi những chướng ngại ngăn cản chúng ta đạt đến cứu cánh: tội lỗi, những chước cám dỗ, những nỗi cơ cực.

Như vậy, dựa trên giáo huấn của kinh Lạy Cha, chúng ta học biết phải cầu xin Chúa những điều gì, theo thứ tự nào. Hơn thế nữa, trong dẫn nhập vào các bài huấn giáo về kinh Lạy Cha, giảng cho các tín hữu ở Napoli vào mùa Chay năm 1273, thánh nhân còn vạch ra giá trị của Kinh này ở chỗ dạy chúng ta 5 đặc tính cần thiết của việc cầu nguyện. Chúng ta hãy đọc bản văn[4]:

Trong tất cả các kinh nguyện, Kinh Lạy Cha tuyệt vời nhất, bởi vì kinh này chứa đựng 5 đặc tính của lời cầu nguyện chính đáng, đó là: 1) tin tưởng, 2) ngay chính, 3) thứ tự, 4) thành tâm và 5) khiêm tốn.

1/ Tin tưởng

Thật vậy, lời cầu nguyện được nâng đỡ bởi lòng tin tưởng phó thác, nhờ đó chúng ta có thể “mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng” (Dt 4,16), và “với niềm tin, không do dự”, bởi vì, như thánh Giacôbê đã nói, “một người do dự nghi nan thì đừng trông mong sẽ nhận được ơn Chúa ban” (xc. Gc 1,6.7).

Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện mang lại cho chúng ta niềm tin tưởng, bởi vì đã được soạn ra bởi Vị Trạng sư của chúng ta trước tòa Thiên Chúa, Kẻ bầu cử rất khôn ngoan, Đấng “nắm giữ mọi kho báu của sự cao minh thông tuệ” (xc. Col 2,3), Đấng mà thánh Gioan viết rằng: “Chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính” (1 Ga 2, 1). Vì thế thánh Cyprianô đã viết thật chí lý trong Khảo luận về Kinh Lạy Cha: “Vì đã có Đức Kitô là trạng sư bên cạnh Chúa Cha để biện hộ cho những tội lỗi chúng ta, chúng ta hãy để cho vị trạng sư lên tiếng”.

Kinh Lạy Cha còn mang lại sự bảo đảm và tin tưởng hơn nữa khi biết rằng: Đức Kitô là kẻ đã dạy chúng ta kinh nguyện thì cũng chính là kẻ, cùng với Chúa Cha, sẽ nhậm lời chúng ta cầu xin, ngõ hầu ứng nghiệm lời thánh vịnh: “Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại” (Tv 91,15). Vì thế thánh Cyprianô đã nói: “Thật là một lời cầu nguyện của bạn hữu thân thiết khi chúng ta thưa chuyện với Thiên Chúa bằng chính những lời Người đã dạy”. Do đó chắc chắn thế nào kinh này cũng mang lại hoa trái, và theo lời thánh Augustinô, thì nhờ đọc kinh này mà Thiên Chúa sẽ tha thứ những tội nhẹ của chúng ta.

2/ Ngay chính

Thứ đến, lời cầu nguyện của chúng ta phải ngay chính, nghĩa là phải xin Chúa ban những điều tốt lành cho chúng ta. Thánh Gioan Đamascô đã dạy rằng: “Cầu nguyện là xin Thiên Chúa ban cho những điều tốt lành cho mình”. Điều này giải thích tại sao nhiều lần lời chúng ta cầu nguyện không được chấp nhận, đó là vì ta xin những điều không tốt cho mình, như thánh Giacôbê đã nói: “anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý” (Gc 4,3).

Tuy nhiên, không dễ gì biết được cần phải xin những điều gì, bởi lẽ thật khó biết được những điều thật sự tốt lành đáng mong ước. Thật vậy, điều mong ước mà thích đáng thì lời cầu xin mới thích đáng. Thánh Phaolô đã nhận thức điều này khi viết: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải lẽ” (Rm 8,26). Thế nhưng, Đức Kitô là Thầy chúng ta, đã đích thân dạy chúng ta phải xin những gì, khi các môn đệ thưa với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện” (Lc 11,1).

Vì thế lời cầu nguyện sẽ rất ngay chính khi chúng ta xin Chúa những điều mà chính ngài đã dạy chúng ta phải cầu. Thánh Augustinô đã nói: “nếu chúng ta muốn cầu nguyện một cách ngay chính và xứng hợp, thì cho dù ta dùng những lời lẽ gì đi nữa, nhưng ta chỉ được xin những điều đã được chứa đựng trong Kinh Lạy Cha mà thôi”.

3/ Thứ tự

Lời cầu nguyện cần phải có thứ tự, cũng tựa như lòng ước muốn cũng cần phải có thứ tự. Thật vậy, lời cầu nguyện là sự bộc lộ của lòng ước muốn. Thế nhưng, trong những điều ước muốn và cầu xin thì trật tự đòi hỏi rằng chúng ta cần đặt những điều tốt về tinh thần lên trên những điều tốt về vật chất, cũng như những điều tốt trên trời lên trên những điều tốt ở dưới thế. Thật vậy, Chúa Giêsu đã khuyên chúng ta: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia – cái ăn, cái uống, sự sống – thì Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Đó chính là điều mà Chúa Giêsu dạy chúng ta trong kinh Lạy Cha, trong đó tiên vàn chúng ta cầu xin những điều tốt trên trời, rồi đến những điều tốt ở dưới trần thế.

4/ Thành tâm

Lời cầu xin cần phải thành tâm, bởi vì lòng nhiệt thành sốt sắng sẽ làm cho lời cầu nguyện trở thành hy lễ đẹp lòng Thiên Chúa, như vịnh gia đã diễn tả: “Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca” (Tv 63,5.6).

Lòng sốt sắng thường bị giảm bớt do những lời kinh rườm rà. Vì thế Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải tránh những lời lải nhải rườm rà: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng càng dài lời thì lời kinh càng được chấp thuận” (Mt 6,7). Thánh Augustinô trong thư gửi Proba, cũng nói: “Hãy tránh những lời lải nhải. Tuy nhiên, đừng giảm bớt lòng tha thiết cầu khẩn, nhưng hãy nuôi dưỡng lòng nhiệt thành”. Đó cũng là lý do mà Chúa Giêsu đã muốn cho kinh Lạy Cha vắn gọn. Lòng nhiệt thành được nuôi dưỡng nhờ tình yêu trào ra từ đức ái, nghĩa là mến Chúa yêu người. Hai mối tình này được nêu bật trong Kinh lạy Cha. Lòng mến Chúa được thúc đẩy khi chúng ta hướng về Ngài và thưa “Cha ơi”; lòng yêu người được kích thích khi, cùng hiệp thông với mọi người, chúng ta cầu nguyện cho hết thảy mọi người khi đọc lên: “Lạy Cha của chúng con”, và “xin Cha hãy tha nợ cho chúng con”. Thật vậy, đó là điều mà lòng yêu người dẫn tới.

5/ Khiêm tốn

Sau cùng, lời cầu nguyện phải khiêm tốn bởi vì Thiên Chúa: “đoái nghe tiếng kêu cầu của kẻ khiêm tốn, và không chê bỏ lời họ nguyện xin” (Tv 102,18). Một lời cầu nguyện khiêm nhu chắc chắn được chấp nhận, như Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta trong dụ ngôn về người biệt phái và người thâu thuế (xc. Lc 18,9-15). Lời cầu của bà Giuđitha (9,16) cũng thế, bà thưa với Chúa: “Ngài là Thiên Chúa của kẻ khiêm nhu và Đấng hộ phù kẻ bị bỏ rơi”.

Sự khiêm nhu này được thi hành trong Kinh Lạy Cha. Thật vậy, người ta khiêm nhường thực sự khi không dám dựa trên sức lực riêng của mình, nhưng đợi trông tất cả nơi quyền năng Thiên Chúa, Đấng mà họ kêu khấn van xin.

4. Vài lời khuyên thực hành

Bên cạnh những nguyên tắc lý thuyết liên quan mang tính đạo lý, thánh Tôma không bỏ qua vài câu hỏi được nêu chung quanh việc thực hành cầu nguyện.

a- Có thể nào không bị chia trí khi cầu nguyện ?

Phúc âm có nói: “Tinh thần thì mau lẹ nhưng xác thịt thì yếu đuối” (Mt 26,41). Tinh thần muốn bay cao lên, nhưng xác thịt yếu hèn cứ kéo xuống. Vì thế không lạ gì mà sự chia trí xảy ra (mục 13, ad 2). Tuy nhiên, sự chia trí không làm mất công trạng, nếu chúng xảy đến ngoài ý muốn (ad 3). Điều quan trọng là chúng ta có ý định cầu nguyện, nghĩa là chúng ta muốn cầu nguyện. Ý muốn này bao hàm cố gắng tránh những sự chia trí bao nhiêu có thể được. Riêng về sự chú ý khi đọc kinh, thánh Tôma phân biệt ba cấp độ: cấp thứ nhất là chú ý tới lời đọc (đúng vần đúng chứ); cấp thứ hai là chú ý đến ý nghĩa của lời kinh đọc; cấp thứ ba là chú đên mục đích của cầu nguyện là kết hợp với Chúa, và điều này quan trọng hơn cả. Đôi khi chính sự chú ý này nâng linh hồn lên đến Chúa mạnh mẽ đến nỗi quên hết mọi sự khác. Các tác giả đặt tên cho ba cấp độ là: chú ý “chất thể” (attentio materialis); chú ý văn từ (litteralis); chú ý tâm linh (spiritualis).

b- Có thể cầu nguyện lâu dài, cầu nguyện liên lỉ không? (xc. Lc 18,1; 1 Tx 5,17)

Thánh Tôma trả lời (mục 14) rằng có thể phân biệt hai cách đề bàn về cầu nguyện: hoặc là chính nó, hoặc là nói đến nguyên nhân. Xét theo chính nó, thì ta không thể cầu nguyện liên lỉ được, bởi vì còn phải chu toàn nhiều bổn phận khác nữa; xét theo nguyên nhân, tức là lòng ao ước yêu mến Chúa, thì nó có thể liên tục. Khi chúng ta muốn cầu nguyện lâu giờ, thì đừng chỉ nghĩ đến đọc nhiều kinh, nhưng cố gắng duy trì lòng ao ước cầu nguyện. Cần phải biết giới hạn của bản thân: đọc kinh lâu giờ chưa hẳn là tăng thêm lòng sốt sắng, trái lại, gây ra mệt mỏi nữa! Dù sao, khi nói đến cầu nguyện liên lỉ, chúng ta nên biết có ba cách: một là ước muốn cầu nguyện liên lỉ; hai là không bỏ qua cầu nguyện vào thời giờ đã định; ba là xét về công hiệu của nó, đó là hoặc mình cảm thấy sốt sắng cầu nguyện hơn, hay là thúc đẩy những người khác cầu nguyện.

II. Hành trình cầu nguyện

Như đã nói trên, vào thời cận đại, người ta quen phân biệt giữa “khẩu nguyện” (prière) và “tâm nguyện” (oraison), và thường nhấn mạnh rằng tâm nguyện mới thực sự là cầu nguyện. Để dễ dàng thực hành tâm nguyện, nhiều phương pháp suy gẫm đã được đặt ra, và không thiếu lần người ta đồng hóa một trường phái linh đạo với một phương pháp suy gẫm, chẳng hạn như phương pháp Inhaxiô, Xuân bích, Vincent de Paul, vv[5]. Nói chung, buổi tâm nguyện được chia làm ba phần: chuẩn bị, thân bài, kết luận. Nhưng trước đó, các tác giả không bỏ qua các hoàn cảnh ngoại tại liên quan đến việc cầu nguyện, tựa như thời khắc, thời gian, không gian, tư thế. Ngoài ra, còn có sự chuẩn bị xa và chuẩn bị gần.

Các đan sĩ đời Trung cổ không biết đến các “phương pháp suy gẫm”. Đối với họ, hình thức cầu nguyện chính là phụng vụ (Thánh Lễ và Phụng vụ giờ kinh). Sau buổi cử hành phụng vụ, họ ngồi lại để “nhai lại” điều mình vừa mới cử hành. Mặt khác, các đan sĩ cũng có thói quen suy gẫm Lời Chúa (lectio divina), tức là nghiền ngẫm Sách Thánh để nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện. Vì thế, chúng ta không thể mong tìm thấy một “phương pháp suy gẫm” trong các tác phẩm của thánh Tôma. Tuy nhiên, ở cuối phần thứ II của Summa Theologiae, khi bàn về đời sống tu trì, ngài cũng đả động đến câu chuyện tạm gọi là “hành trình cầu nguyện”, hay nói chính xác hơn, “hành trình tiến tới contemplatio”.

Tuy nhiên, trước khi đi vào đề, cần nói đôi lời về việc dịch thuật và sử dụng từ contemplatio, sau đó, chúng tôi sẽ đề cập đến việc thực hành contemplatio.

A. Từ ngữ: Contemplatio

Trong các sách báo Công giáo tiếng Việt, “chiêm niệm” được dùng để dịch contemplatio trong tiếng Latinh (và các ngôn ngữ gốc từ đó: Pháp, Anh, Tây ban nha, Ý, vv). Nhưng mà có lẽ ít người đặt câu hỏi: “chiêm niệm” trong tiếng Hán Việt có nghĩa là gì?[6] Mặt khác, contemplatio trong tiếng Latinh có thể được dịch ra tiếng Việt bằng nhiều từ tương đương: chiêm ngắm, quan chiêm, chiêm ngưỡng, nhìn ngắm, quán định, thiền định.

Thực ra contemplatio được dùng trong nhiều bối cảnh khác nhau. Chúng ta ôn lại những hoàn cảnh ấy, trước khi bước vào khung cảnh thần học Kitô giáo.

1. Trong văn chương

Danh từ contemplatio được sử dụng trong ba lãnh vực khác nhau.

a) Mỹ thuật: chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một bức tranh, một quang cảnh thiên nhiên. Sự chiêm ngưỡng là một thái độ trầm trồ thán phục, để lại một thứ an bình trong tâm hồn.

b) Triết học: trầm tư ngẫm nghĩ một chân lý trừu tượng hay hiện sinh (chẳng hạn: Hữu; Nhất; nguồn gốc vạn vật; Ý nghĩa cuộc đời; Thiện - Ác). Khác với sự suy diễn sử dụng nhiều lý luận, sự chiêm ngắm mang tính cách trực giác, đơn giản (simplex intuitus veritatis)

c) Tôn giáo: chiêm ngưỡng Thiên Chúa hoặc các thực tại siêu việt (chẳng hạn như thiền định trong các tôn giáo Ấn độ).

2. Trong thần học Kitô giáo

Ngay trong thần học Kitô giáo, contemplatio cũng có thể hiểu về ba thực tại: một cung cách, một hình thức cầu nguyện, một nếp sống.

a) Chiêm ngưỡng như là một cung cách (thái độ, trạng thái). Điều này được áp dụng cho các phúc nhân trên trời: họ được chiêm ngưỡng nhan Chúa. Tuy vậy, khi còn sống ở trần thế này, chúng ta cũng có thể thông dự phần nào vào trạng thái đó, nhờ thái độ hồi tâm để tiếp xúc với Thiên Chúa, nhìn nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời.

b) Chiêm ngưỡng như là một hình thức cầu nguyện.

- (i) Các đan sĩ từ thời Trung cổ đã mô tả diễn tiến của buổi cầu nguyện (lectio divina) thành 4 hồi: lectio, meditatio, oratio, contemplatio. Việc chiêm ngưỡng được coi như kết thúc thường tình của buổi cầu nguyện, khi ta được vui hưởng sự dịu ngọt vì được biết Chúa và mến Chúa.

- (ii) Vào thời cận đại, contemplatio được hiểu như trình độ cao cấp của đời sống cầu nguyện. Các tín hữu bình thường chỉ biết đọc kinh (khẩu nguyện); lên cao hơn một bậc, các tu sĩ được khuyến khích thực hành tâm nguyện (suy gẫm); sự chiêm niệm là một ân huệ Chúa ban cho một số ít người (vì thế được gọi là “thiên phú”).

- (iii) Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo trở về với quan điểm cổ truyền: sự chiêm niệm chỉ là một trong ba hình thức diễn tả việc cầu nguyện: khẩu nguyện (oratio vocalis: số 2700-2704), suy niệm (meditatio: 2705-2708), chiêm niệm (oratio contemplativa: 2709-2719). Bởi vì là ba hình thức (chứ không phải là ba cấp độ tiến triển) cho nên tất cả các tín hữu đều được mời gọi thực hành cả ba. Ngay cả bác nhà quê xứ Ars cũng đã biết chiêm niệm, khi ông thưa với cha sở rằng: Con nhìn Chúa và Chúa nhìn con (số 2715).

Theo chiều hướng đó, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã giới thiệu kinh Mân côi như là một lối cầu nguyện chiêm niệm (oratio contemplativa), nhờ việc suy gẫm các mầu nhiệm của Chúa Kitô với cặp mắt của Mẹ Maria (tông thư Rosarium Virginis Mariae, 16/10/2002, số 12).

c) Chiêm niệm như là một nếp sống: đời sống chiêm niệm (vita contemplativa), thường được hiểu như là đối chọi với đời sống hoạt động (vita activa). Đề tài này sẽ được giải thích trong kết luận của bài này.

3. Trong các tác phẩm của Thánh Tôma

Trong các tác phẩm của thánh Tôma, contemplatio được dùng theo nghĩa triết học cũng như theo nghĩa thần học.

a) Theo nghĩa triết học, contemplatio được hiểu về sự nắm bắt chân lý cách trực tiếp: “một cái nhìn cắm thẳng vào chân lý” (simplex intuitus veritatis: II-II, q. 180, a. 3, ad 1). Đó là một tác động của trí tuệ (intellectus), khác với tác động của lý trí (ratio) phải dùng suy luận. Để có thể hiểu sự khác biệt, ta có thể đối chiếu cách thức hiểu biết biệt giữa các thiên thần và loài người chúng ta. Các thiên thần nắm bắt chân lý theo trực kiến, còn chúng ta phải sử dụng đến lý luận, đi từ nguyên tắc cho đến kết luận.

b) Theo nghĩa thần học, contemplatio ở cấp độ cao nhất được dành cho các phúc nhân trên trời: họ được “chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa”. Đối tượng không chỉ là một chân lý trừu tượng nhưng là chính Thiên Chúa, một cuộc kết hiệp với Thiên Chúa. Đó là một tác động vừa của trí tuệ vừa của tình yêu, nghĩa là của toàn thể con người, nhưng nó không phải là một nỗ lực của con người cho bằng một ân huệ Chúa ban. Việc chiêm ngưỡng nhan Chúa là mục đích tối hậu của con người, hạnh phúc tuyệt đối của con người (STh II-II, q. 180, a. 4: contemplatio est finis totius humanae vitae).

Bao lâu còn ở dưới trần thế, việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa là một khát vọng của con người. May thay Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta được thông dự phần nào vào lý tưởng ấy, và cũng có thể được coi như là contemplatio, như là khởi đầu của phúc kiến (STh II-II, q. 180, a. 4: inchoatio beatitudinis, quae hic incipit ut in futuro terminetur). Sự chiêm niệm này thường diễn ra trong khung cảnh cầu nguyện, và từ đó gọi là “cầu nguyện chiêm niệm”.

c) Ngoài ra, thánh Tôma cũng hiểu chiêm niệm như một nếp sống trong Hội Thánh: đời sống chiêm niệm (vita contemplativa) đối lại với đời sống hoạt động. Đề tài này được bàn ở II-II, các quaestiones 179-182. Trước hết, chúng tôi sẽ trình bày contemplatio hiểu như cầu nguyện, và đời sống chiêm niệm sẽ được đề cập trong phần kết luận.

B. Thực hành contemplatio


Sự chiêm niệm tự nó là một tác động đơn giản, một sự nắm bắt chân lý trực tiếp. Tuy nhiên, không như các thiên thần hiểu biết theo trực giác, nhưng chúng ta đạt tới chân lý bằng nhiều tác động. Hơn thế nữa ở đây chúng ta không bàn về chân lý triết học nhưng là về Thiên Chúa, vì thế cần có những công tác chuẩn bị.

1. Những công tác chuẩn bị

Con người chúng ta gồm bởi linh hồn và thân xác, sống trong thế giới hữu hình, dễ bị lôi cuốn bởi những thực tại vật chất, cho nên không dễ gì tập trung chú ý vào những thực hại thiêng liêng. Vì thế tiên vàn, việc cầu nguyện đòi hỏi ý muốn cầu nguyện. Ý muốn không chỉ hiểu về quyết tâm cầu nguyện, mà còn bao hàm lòng yêu mến, ước ao gặp gỡ Chúa (quaestio 180, art. 1).

Mặt khác, nó đòi hỏi sự hợp tác của các nhân đức luân lý, nhằm ngăn cản những xáo trộn của cảm xúc, tạo ra một bầu khí bình an nội tâm. Nói cách khác, việc chuẩn bị cầu nguyện bao gồm việc thực hành các nhân đức luân lý (art. 2).

Hơn nữa, cầu nguyện là “nâng tâm hồn lên với Chúa”. Thế nhưng Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ không phải là Đấng Vô Danh, nhưng là Thiên Chúa tự mặc khải qua Đức Kitô và Thánh Linh. Nói khác đi, việc cầu nguyện đòi hỏi sự vận dụng ba nhân đức hướng Chúa (tin, cậy mến), ba nhân đức thiên phú và được củng cố bằng các ân huệ Thánh Linh (cao minh, thâm hiểu, minh luận, kính sợ).

2. Các hành vi dẫn tới chiêm niệm

Trong articulus 3, thánh Tôma phân tích bốn hành vi chính của việc chiêm niệm dựa theo mô hình của Hugues de Saint Victor (1096-1141): lectio, meditatio, oratio, contemplatio[7]. Chiêm niệm là đích điểm, các hành vi trước đó chỉ là phương tiện. Vì thế chúng tôi xin đảo ngược thứ tự, đi từ cuối lên đầu.

a) Đích điểm: contemplatio. Chúng ta đã nói đến bản chất của việc chiêm niệm. Bản chất của chiêm niệm là một hành vi của lý trí, nhưng ở đây, xét vì đối tượng đặc thù là Thiên Chúa, cho nên chiêm niệm bao gồm cả yêu mến nữa: chiêm niệm là một cuộc gặp gỡ, một cái nhìn trìu mến. Khuôn mẫu trọn vẹn của việc chiêm ngưỡng này chỉ diễn ra trên thiên đàng, còn bao lâu còn trên đường lữ hành đức tin, việc chiêm ngưỡng được chuẩn bị bằng nhiều phương thế, đó là lectio, meditatio, oratio. Nên biết là có người coi ba tác động này như phương thế chuẩn bị, có người coi đó như là những thành phần của việc chiêm niệm trong điều kiện sinh hoạt của con người hiện nay.

b) Lectio, meditatio, oratio

Đã có nhiều giải thích được ra chung quanh những động tác này. Thánh Tôma quan niệm đơn giản như thế này: Lectio là đọc Sách Thánh, nghĩa là mình nghe Chúa nói; Oratio là mình nói chuyện với Chúa; Meditatio có thể thuộc cả hai bên: hoặc như là nghiền ngẫm điều mà mình mới nghe, rồi từ đó mình chuẩn bị những tâm tình sẽ thưa lại với Chúa[8]. Hiểu như vậy, không nhất thiết phải tuân hành ba động tác này theo một thứ tự chặt chẽ. Ý tưởng chính là gặp gỡ Chúa với cả trí tuệ cũng như lòng mến yêu, hay nói cách khác, đây là cơ hội để sống ba nhân đức tin, cậy, mến.

Cũng trong articulus 3, bên cạnh tiến trình 4 hành vi vừa nói, thánh Tôma còn thêm một chuỗi khác dài hơn mà ngài đã học được từ luật thánh Biển Đức (chương 48), kéo dài bước thứ nhất (lectio) ra làm ba động tác: lectio, cogitatio, studium. Công thức này có lợi điểm là coi cả việc suy tư và học hành cũng nằm trong “kế hoạch” chiêm niệm. Thật vậy, thánh Tôma đã biện minh cho việc thiết lập một dòng tu chuyên học thánh khoa, bởi vì ngoài việc góp phần vào việc rao giảng Tin mừng, việc học còn giúp cho việc chiêm niệm chân lý và thánh hóa bản thân (II-II, q. 188, a. 5).

Như đã nói, đối với thánh Tôma, contemplatio không chỉ là điểm đến của buổi cầu nguyện mà còn là cứu cánh của cuộc đời Kitô hữu, tuy chỉ sẽ hoàn bị ở đời sau (II-II, q. 180, a. 4). Nhất là chúng ta không được phép quên rằng đức mến cao trọng nhất trong các nhân đức và tồn tại mãi mãi (II-II, q. 184, a. 1).

Đến đây, thánh Tôma thêm một ghi chú nho nhỏ nhưng khá quan trọng. Bởi mến Chúa thì cao trọng hơn yêu người cho nên đời sống chiêm niệm thì cao quý hơn đời sống hoạt động. Tuy nhiên, chiêm niệm rồi thông truyền cho tha nhân điều mà mình chiêm niệm thì tốt hơn là chỉ chiêm niệm cho bản thân mình (II-II, q. 188, a. 6). Tại sao có chuyện đối chọi giữa chiêm niệm và hoạt động? Đây là đề tài mà chúng tôi muốn đề cập để kết luận bài này, chúng ta hãy tìm hiểu mối tương quan giữa đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động.

Kết luận. Chiêm niệm và hoạt động

Sự phân biệt giữa chiêm niệm và hoạt động bắt nguồn từ các triết gia Hy-lạp và Rôma, và đã biến thái nhiều khi được du nhập vào Kitô giáo.

A. Triết học cổ điển

Nói chung, chiêm niệm được hiểu như là sinh hoạt trí thức, còn hoạt động được hiểu về hoạt động chính trị xã hội. Lao động chân tay không được đếm xỉa ở đây, bởi vì là công tác dành cho hạng nô lệ.

1/ Ông Aristote phân biệt hai tác động của trí tuệ: thuần lý và thực tiễn (theoria/praxis). Theo ông, trí tuệ thuần lý tiếp xúc với vũ trụ ngoại giới, nhằm khám phá sự thật (veritas, scientia); và đó chính là đời sống chiêm niệm (vita contemplativa). Còn trí tuệ thực tiễn thì hướng đến bản thân, nhằm điều khiển cuộc đời cho đứng đắn (rectitudo moralis), hoặc chế tạo vật dụng. Ông Aristote gọi đó là hành động (vita activa). Đối với ông, chiêm niệm có giá trị cao hơn hành động, bởi vì nhờ sự chiêm niệm mà trí tuệ có thể đạt thấu tới lý lẽ của vũ trụ và thậm chí tới cả Thượng đế nữa (Ethica Nicomachea, lib.VI; De anima lib.V).

2/ Ông Cicêrô (do ảnh hưởng của học phái Stoa) cho rằng hành động có giá trị hơn là chiêm niệm. Đức khôn ngoan (sapientia), nhân đức cao cấp nhất, có thể đạt được nhờ thi hành các bổn phận xã hội, chứ không phải nhờ suy tư chân lý.

B. Các giáo phụ

Nói chung, các giáo phụ Đông phương đi theo quan điểm của triết gia Aristote. Ông Origene đã đối chiếu chiêm niệm và hoạt động dựa theo tích của bà Maria và bà Marta (xc. Lc 10,38-42; Ga 11,18), và dành vị trí ưu tiên cho chiêm niệm. Các giáo phụ bên Tây phương có thiện cảm với chủ trương của ông Cicerô, quý trọng các công tác xã hội.

1/ Thánh Augustinô áp dụng sự đối chiếu đời sống chiêm niệm và hoạt động vào nhiều bối cảnh khác nhau:

- a) Cuộc sống hiện tại dưới thế (hoạt động) và cuộc sống mai hậu trên trời (chiêm niệm). Hai nếp sống cách xa nhau một trời một vực, và dĩ nhiên là chiêm niệm có giá trị hơn hoạt động, cũng như thực tại vĩnh cửu đáng giá hơn thực tại tạm bợ.

- b) Hai khía cạnh giằng co với nhau trong cuộc đời của mỗi người tín hữu: chiêm niệm và hoạt động. Khó có thể dung hoà cả hai khía cạnh cùng một lúc. Dù sao, chiêm niệm vẫn cao hơn hoạt động.

- c) Hai nếp sống của các tín hữu: đời chiêm niệm (vita otiosa) của những người nghiên cứu chân lý; đời hoạt động (vita negotiosa) của những người dấn thân vào thế sự. Tuy vậy thánh Augustinô cũng hình dung một thứ hoà hợp cả hai nếp sống đó (ex utraque composita). Đời sống chiêm niệm là tốt nhất, tuy nhiên đôi khi nhu cầu bác ái (necessitas caritatis) lại được đặt cao hơn là lòng yêu chuộng chân lý (caritas veritatis).

2/ Thánh Grêgôriô Cả áp dụng sự đối chiếu vào hành trình tâm linh

- a) hoạt động có nghĩa là thực hành các nhân đức và thực hành công tác bác ái;

- b) chiêm niệm có nghĩa là thực hành các nhân đức hướng Chúa.

Đó là hai chặng đường của đời sống tâm linh. Chặng thứ nhất tương ứng với giai đoạn thanh luyện và chiếu sáng; chặng thứ hai tương ứng với giai đoạn kết hiệp. Tất cả các tín hữu cần thực hành hai chặng đường ấy.

C. Thời Trung cổ

Thánh Tôma Aquinô tổng hợp hai quan điểm của thánh Augustinô và thánh Grêgôriô, áp dụng sự đối chiếu vào hai lãnh vực: nếp sống tu trì; hành trình tâm linh (Summa Theologica, II-II, q. 179-182).

1/ Nếp sống tu trì. Đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động tượng trưng cho hai loại dòng tu: a) một số dòng chuyên vào việc chiêm niệm (các ẩn sĩ và đan sĩ); b) một số dòng phụng sự Thiên Chúa qua các hoạt động như phục vụ bệnh nhân, và các công tác từ thiện. Xét theo đối tượng, thì dòng chiêm niệm giữ điạ vị cao hơn dòng hoạt động, bởi vì mến Chúa thì cao hơn là yêu người; tuy nhiên xét theo công trạng, thì tất cả tuỳ thuộc lòng tận tụy yêu mến khi thi hành công tác. Thánh Tôma còn nói đến loại dòng tu thứ ba nữa: đó là những dòng chiêm niệm rồi sau đó thông truyền điều chiêm niệm cho tha nhân (contemplata aliis tradere). Xét cách khách quan, đây là dòng cao cấp nhất, bởi vì phối hợp cả hai chiều kích của đức ái. 

2/ Hành trình tâm linh của mỗi cá nhân. Hai khía cạnh chiêm niệm và hoạt động cần bổ túc cho nhau: a) hoạt động chuẩn bị cho chiêm niệm (khổ chế chuẩn bị cho huyền bí); b) hoạt động phát sinh từ chiêm niệm (sự phục vụ tha nhân trào ra như lòng yêu mến).

D. Thời cận đại

Chiêm niệm và hoạt động thường được hiểu về hai loại dòng tu: a) các dòng đan tu chuyên lo cầu nguyện; b) các dòng hoạt động lo làm việc tông đồ. Hậu quả là các dòng chiêm niệm thì miễn hoạt động tông đồ, còn các dòng tông đồ thì miễn chiêm niệm. Hai nếp sống coi như tách biệt, tựa như bà Maria và bà Marta vậy. 

Tuy vậy, cũng có những khuynh hướng muốn bắt nhịp cầu giữa đôi bên, điển hình là câu châm ngôn của dòng Tên: contemplativus in actione (chiêm niệm trong hoạt động), được lặp lại trong các văn kiện gần đây của Toà thánh (Thông điệp Redemptoris Missio số 91; Tông huấn Vita consecrata số 74).

Cần phải hiểu chính xác ý nghĩa của châm ngôn đó (tác giả là cha Jeronimo Nadal, tổng quyền dòng Tên). Tác giả không chủ trương rằng hoạt động cũng là chiêm niệm (hoạt động thay thế cho chiêm niệm); nhưng ngược lại, tu sĩ cần phải kéo dài thái độ chiêm niệm ngay cả lúc hoạt động. Dù cầu nguyện, dù hoạt động, tu sĩ cần biết duy trì sự kết hiệp với Thiên Chúa, nhìn nhận ra sự hiện diện của Ngài nơi hết mọi hoàn cảnh. Điều này giả thiết rằng chúng ta đã làm quen, gặp gỡ hàn huyên với Ngài nhiều lần trong lúc cầu nguyện. Từ đó, chúng ta hãy tiếp tục kết hợp với Ngài trong hết mọi hành vi và cảnh huống cuộc đời, đồng thời cố gắng mang Ngài đến với hết mọi người mà chúng ta tiếp xúc. Đối lại, chính khi giao tiếp với trần thế như vậy, mà ta thấy những nhu cầu mới thúc đẩy ta trở về cầu nguyện cách tha thiết hơn nữa.

Mặt khác, sự chiêm niệm và sự hoạt động đều đòi hỏi một thái độ như nhau: con tim trong trắng, từ bỏ mình, khiêm tốn, ý chí ngay thẳng, ngoan ngoãn để cho Thánh Linh dìu dắt, tin yêu và hy vọng dù gặp gian nan thử thách.

E. Các văn kiện Toà thánh

Công đồng Vaticanô II muốn sửa lại vài quan niệm lệch lạc trong quá khứ khi phân chia các dòng tu ra làm hai loại: chiêm niệm và tông đồ. Không phải như vậy: tất cả các dòng tu đều mang tính cách chiêm niệm và tông đồ (DT số 2; 5; 6), tuy rằng một số dòng dấn thân hoàn toàn vào việc chiêm niệm (DT số 7: Instituta quae integre ad contemplationem ordinantur), và một số dòng dấn thân vào công tác tông đồ (DT số 8: Instituta apostolatus operibus dedita)

Điều này được nêu bật hơn nữa trong văn kiện Chiều kích chiêm niệm của đời tu (năm 1980). Tất cả mọi tu sĩ đều phải sống chiều kích chiêm niệm, được mô tả ở số 1 như sau: chiều kích chiêm niệm là sự đáp trả Thiên Chúa bằng các đức tin, cậy, mến, nhờ đó người tín hữu đón nhận mặc khải và sự hiệp thông của Thiên Chúa hằng sống nơi Đức Kitô trong Thánh thần, hoặc như là hướng tầm mắt và cõi lòng về Thiên Chúa, thái độ khiêm tốn tôn thờ sự hiện diện nhiệm mầu của Thiên Chúa nơi con người, nơi các biến cố và các sự việc.

Khai triển đạo lý của công đồng Vaticanô II (DT số 8), văn kiện bàn đến mối dây liên kết chặt chẽ giữa chiêm niệm và hoạt động như sau: các hoạt động tông đồ cần phát xuất từ sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, nhắm củng cố và tăng cường cho sự kết hiệp đó (xc. số 6).

Đó cũng là điều được Tông huấn Vita consecrata (số 74) đặt tên là linh đạo hoạt động (spirituality of action) hoặc linh đạo tông đồ (apostolic spirituality), đã được thánh Grêgôriô Cả diễn tả như sau:

Cần phải biết rằng nếu muốn sống cho có trật tự thì cần biết chuyển từ đời sống hoạt động sang đời sống chiêm niệm; nhiều khi cũng nên từ đời chiêm niệm trở lại đời sống hoạt động, để cho ngọn lửa thắp lên trong tâm trí nhờ chiêm niệm sẽ tỏa lan trọn vẹn trong hành động. Như thế đời sống hoạt động phải đưa tới đời sống chiêm niệm và từ đó đời sống chiêm niệm, dựa trên những gì tâm trí chúng ta đã nhận biết, đưa chúng ta trở lại hành động một cách chắc chắn hơn.
Thư mục

Về sự cầu nguyện theo thánh Tôma, xin xem các chú giải Summa Theologiae, II-II, q. 83. Sau đây là vài nghiên cứu đối chiếu quan niệm của thánh Tôma qua các tác phẩm.

1. L. Dewan, “St. Thomas and the Ontology of Prayer”, DivusThomas 77 (1974), p. 392-402.

2. S.-T. Pinckaers, La Prière chrétienne, Fribourg, 1989.

3. L. Maidl, Desiderii Interpres. Genese und Grundstruktur der Gebetstheologie des Thomas von Aquin, Paderborn, 1994

4. J.-P. Torrell, “L'interprète du désir. La prière chez saint Thomas d'Aquin”, Vie Spirituelle, n° 752 (mai 2004), p. 213-223.

______

[1] Simon Tugwell, Albert and Thomas. Selected Writings, Paulist Press, New York 1988, p. 272.
[2] Xc. David Berger, Thomas Aquinas and the Liturgy, Sapientia Press, Naples (Florida), 2005.
[3] X. Phan Tấn Thành, Thần học về đời sống tâm linh Kitô giáo (Đời sống tâm linh III), Phương Đông: TPHCM 2015, trang 166-167.
[4] Kinh Lạy Cha và Kinh mừng theo chú giải của thánh Tôma Aquino dịch giả: Nguyễn Thanh Tâm, Học viện Đa Minh 2015, trang 11-17.
[5] Phan Tấn Thành, Thần học về đời sống tâm linh Kitô giáo (Đời sống tâm linh III), Phương Đông: TPHCM 2015, trang 201-224.
[6] Niệm: tưởng tới, nhớ tới. Đọc thầm trong miệng. Mặc niệm: yên lặng mà tưởng nhớ tới. (Mặc: yên lặng). Tâm niệm: tưởng nhớ trong lòng. Ý niệm: điều mình có trong trí về một vật bên ngoài. Quan niệm: điều cảm thấy và nghĩ ngợi về một sự việc (quan: điều xem thấy, điều ý thức được. - Chiêm: ngẩng mặt trông nhìn. Chiêm ngưỡng: ngẩng đầu lên mà nhìn với vẻ thán phục.
[7] Ngày nay, các nhà sử học nhìn nhận tác giả của công thức này là viện phụ Guigo II, trong tác phẩm Scala Claustralium (k.1188). Xc. Phan Tấn Thành, Cầu nguyện Kitô giáo: Lịch sử và thần học (Đời sống tâm linh VII), Phương Đông: TPHCM, 2015, trang 330-336.
[8] Sent. IV, dist. 15, q. 4, a. 1, q. 2, ad 1.
Bài đăng cũ hơn
Bài đăng mới hơn
//