Thời sự Thần học - Số 95, tháng 3/2022, tr. 13-74.
_Gioan Nguyễn Long Quân, O.P._
Dẫn nhậpI. Tổng quan về sách Tình caA. Tác giả, tên gọi và thời gian biên soạnB. Cấu trúc và hình thứcC. Phong cách văn chươngD. Tính thống nhấtE. Các lối giải thíchF. Cấu trúcII. Các lối giải thích Tình ca trong lịch sửA. Lối giải thích phúng dụ1. Truyền thống phúng dụ Do-thái giáo2. Truyền thống phúng dụ Kitô giáoa. Các giáo phụb. Sự tiến triển của các lối giải thích phúng dụ3. Lối tiếp cận tiên trưng (typologia)4. Nhận định chung về lối giải thích phúng dụB. Lối giải thích văn tự1. Thêôđôrê Mopsuestia2. Lối tiếp cận bi kịcha. Lý thuyết ba nhân vậtb. Lý thuyết hai nhân vật3. Lối tiếp cận giấc mơ4. Lối tiếp cận thần thoại – tín ngưỡng5. Lối tiếp cận nhân họca. Quan điểm văn tự – giáo huấnb. Quan điểm hợp tuyểnc. Kiểu mẫu của tình yêu tự dod. Một cách diễn đạt lãng mạn của tình yêu con ngườie. Tìm và gặp niềm vui thỏa trong tình yêu6. Nhận định chung về lối giải thích văn tựKết luận
Tình ca[1] là một tác phẩm ngắn của Cựu Ước, gồm 177 câu, với 1250 từ (chiếm
0,42 % toàn bộ Kinh Thánh), nhưng lại là đề tài gây tranh cãi trong suốt dòng
lịch sử giải thích thần học. Tình ca được xem là sách “thánh” nhưng không có
một lời Chúa nói nào cả, nội dung miêu tả một thực tại hết sức trần tục: tình
yêu nam nữ, thậm chí không ngần ngại có những chi tiết hoàn toàn mang tính
nhục dục.
Thật vậy, có lẽ không có sách nào trong toàn bộ Kinh Thánh có nhiều lối giải
thích như sách Tình ca vì dường như chiếc chìa khóa giải mã nó đã bị thất lạc.
Nhiều học giả cũng cho rằng, Tình ca là quyển tối nghĩa nhất trong Cựu Ước, và
dù cho người ta có áp dụng bất kỳ nguyên tắc giải thích nào đi chăng nữa thì
quyển sách vẫn hàm chứa những đoạn văn không thể nào lý giải nổi. Cũng vì thế,
chỉ khi hiểu được chúng, chúng ta mới có thể giải mã các bí ẩn đằng sau bản
văn. Lịch sử giải thích quyển sách đặc biệt này đã chứng kiến rất nhiều lối
tiếp cận khác nhau, thậm chí đối nghịch và loại trừ nhau. Sự đa dạng của các
lối tiếp cận một mặt cho thấy tính phong phú trong nghiên cứu Sách thánh,
nhưng mặt khác độc giả có nguy cơ bị dẫn đi quá xa so với ý nghĩa tổng quát mà
bản văn muốn diễn tả. Cả hai sắc thái này đều hiện diện trong dòng lịch sử
giải thích Tình ca từ thời cổ đại cho đến hôm nay, dù rằng cuốn sách đã sớm
nằm trong quy điển Do-thái (thế kỷ I).
Cũng cần lưu ý rằng, ngay từ đầu, việc giải thích một cuốn sách giả định người
làm công tác này phải nắm vững toàn bộ ý tưởng của nó. Do đó, thách đố của
việc giải thích Tình ca nằm ở ngay chuyện hình thành ý tưởng tổng thể về nó.
Đây là điều không hề dễ dàng vì mỗi phần của cuốn sách đều có những nét độc
đáo riêng. Đặc biệt, việc Tình ca nằm ở vị trí đầu tiên trong năm cuộn ngắn
(Megilloth) của quy điển Do-thái lại càng làm tăng thêm sự lúng túng trong
việc giải thích nó. Chúng ta biết rằng, Tình ca được đọc vào lễ Vượt qua của
người Do-thái, thế nên mối liên hệ giữa nó và cuộc lễ này chắc chắn không phải
là ngẫu nhiên tình cờ.
Theo học giả Roland Kenneth Harrison († 1993), sự vắng bóng của các chủ đề tôn
giáo cụ thể, sự kết hợp giữa những lời ca tình ái (erotic) với tính mơ hồ về
nội dung trong các đoạn văn dường như đã mở ra cho các học giả vô vàn cơ sở để
nghiên cứu.[2] Hệ luận là các học giả Do-thái cũng như Kitô giáo đã áp dụng
lối giải thích phúng dụ (allegorical interpretation) để tìm hiểu cuốn sách
này. Lối giải thích phúng dụ đã chiếm thế thượng phong ngay từ đầu cho đến thế
kỷ XIX, thậm chí đến tận công đồng Vaticanô II, nhưng hiện nay đang phai mờ
dần khi mà lối tiếp cận văn tự (literal interpretation) bắt đầu hồi sinh với
những biến thể mới. Dầu vậy, bất chấp sự ra đời của rất nhiều phương pháp tiếp
cận, dường như không có một kiểu mẫu giải thích nào nhận được sự đồng thuận
của các nhà chú giải Cựu Ước.
Các học giả cho rằng, muốn tìm hiểu tường tận sách Tình ca, chúng ta phải bắt
đầu từ cấp độ thông diễn học (hermeneutica). Nhưng nguyên tắc thông diễn nào
mới có giá trị đối với thể loại văn chương tình cảm cổ đại này? Liệu chúng ta
có thể thoát khỏi lối thông diễn mang tính ngữ pháp – lịch sử – bối cảnh để
tìm hiểu cuốn sách hay không? Không dễ để trả lời các câu hỏi này. Ở đây,
chúng tôi không thực hiện một nghiên cứu thông diễn đối với Tình ca, nhưng chỉ
dừng lại ở việc giới thiệu các kiểu mẫu giải thích chính yếu đã được áp dụng
trong suốt dòng lịch sử nghiên cứu, đồng thời đánh giá tổng quan các cơ sở
thông diễn mà các kiểu mẫu giải thích đã dựa vào.
Bài viết gồm hai phần chính: phần thứ nhất giới thiệu tổng quan về sách Tình
ca, phần thứ hai giới thiệu những lối giải thích sách này trong dòng lịch sử:
phúng dụ (allegoria) và văn tự (littera).
I. Tổng quan về sách Tình ca
A. Tác giả, tên gọi và thời gian biên soạn
Cuốn sách vào đề với cụm từ (Tình ca) “của Salômôn” (1,1) có thể gây nên nhiều
lầm tưởng cho độc giả. Bởi lẽ theo ước lệ văn chương Híp-ri, danh xưng Salômôn
thường chỉ về mẫu người yêu của phái nữ. Còn theo truyền thuyết lịch sử (x. 1
V 5,12), người Do-thái coi vua Salômôn như gương mặt tiêu biểu cho giới văn
nhân, hiền triết. Mà khi một nhân vật đã nổi tiếng thì người ta có khuynh
hướng đặt tác phẩm của mình dưới danh xưng hay bút hiệu của nhân vật ấy. Do
đó, không dễ để xác nhận tác giả thật sự của cuốn sách. Ý kiến chung của các
nhà chú giải cho rằng, sách Tình ca là thành quả của nhiều đợt thu thập, và
soạn giả cuối cùng đã đúc kết lại vào thời hậu lưu đày.[3]
Cũng ở 1,1, tiêu đề “Bài ca của các bài ca” (Híp-ri: שִׁ֥יר הַשִּׁירִ֖ים;
Latinh: Canticum Canticorum) tựa như kiểu nói “vua các vua”, “chúa các chúa”.
Đây là một thành ngữ Híp-ri, cho biết sự vật đang được nói tới có tính cách
tuyệt hảo, trổi vượt trên tất cả các đơn vị cùng loại. Tình ca là “bài ca hay
nhất”. Tiêu đề cũng cho thấy sự thống nhất của một tuyển tập các bài ca hay
bài thơ. Tính thống nhất này được thể hiện rõ khi người ta gán cho vua Salômôn
là tác giả của cuốn sách, có lẽ vì sự xuất hiện của vua ở 1,1; 3,7.9.11 và
8,11.
Về thời gian biên soạn, dựa trên cơ sở ngôn ngữ và thể văn, người ta thấy rằng
các bài cổ xưa nhất đã được truyền miệng trong dân gian, với những ước lệ của
thi ca Híp-ri cổ. Một số đến sau mang nặng ảnh hưởng của thi ca các nước láng
giềng như Ai-cập, Ba-tư, Ả-rập, Syria. Những câu thơ tình tứ trong tập Tình ca
lại phảng phất hương vị của các lời ngôn sứ. Do đó, khó mà xác định niên đại
của các bài thơ. Ý kiến chung cho rằng sách được biên soạn vào thời hậu lưu
đày. Có nhà chú giải cho rằng thời gian biên soạn trong khoảng từ thế kỷ X cho
đến thế kỷ V tCN, hoặc cho đến thế kỷ III tCN theo một số khác.[4]
Tuy nhiên, sách Tình ca đã sớm được Do-thái giáo và Kitô giáo nhận vào quy
điển. Sách Talmud xếp Tình ca vào vị trí thứ 6 sau các sách Rút, Thánh vịnh,
Gióp, Châm ngôn và Giảng viên. Trong quy điển Híp-ri, sách được xếp giữa các
Ketuvim (các Văn phẩm). Nó là một trong năm “Cuộn” (Megilloth), được chọn đọc
công khai vào dịp lễ Vượt qua. Truyền thống Kitô giáo cũng nhìn nhận Tình ca
nằm trong quy điển Sách thánh, thuộc bộ “các sách khôn ngoan”. Chỉ có một trừ
lệ là giáo phụ Thêôđôrê, giám mục Mopsuestia: ông tiếp cận cuốn sách theo
nghĩa văn tự, giảm thiểu ơn linh hứng trong cuốn sách, và quan điểm này đã bị
kết án tại công đồng Constantinopolis II (553).
B. Cấu trúc và hình thức
Cho đến hôm nay, vẫn chưa có sự đồng thuận liên quan đến cấu trúc hay số lượng
các bài ca trong Tình ca, phần đông các tác giả cho rằng có khoảng 30 bài khá
rời rạc. Sách được trình bày như một tấn bi kịch của hai nhân vật chính (vua
Salômôn và thiếu nữ Shulammite) hoặc ba (vua Salômôn tìm cách quyến rũ thiếu
nữ Shulammite lìa bỏ người tình chân quê của nàng), nhưng quan điểm này bị
nhiều học giả bác bỏ vì chỉ là suy đoán cá nhân. Tác phẩm gây ấn tượng mạnh ở
chỗ có cuộc đối thoại giữa các nhân vật: người nam, người nữ và các thiếu nữ
Giêrusalem. Nhân vật chính của tác phẩm là người nữ; còn người nam xuất hiện
khi là kẻ chăn chiên (1,7), khi là vua (1,4.12), đó cũng là sự hư cấu bình
thường trong văn học.
C. Phong cách văn chương
Tình ca xem ra là một tuyển tập các bài thơ (hay bài ca) có một đơn vị văn
chương riêng, chứa đựng nhiều lối chơi chữ, láy phụ âm, gieo vần, trùng âm, từ
tượng thanh, ngôn ngữ hình ảnh, lối so sánh và ẩn dụ, hình thức cải trang,… Về
nhịp điệu, các vế thơ ca thường được xếp đi cặp với vế thứ hai theo kiểu song
đối đồng nghĩa, nghịch nghĩa hay tổng hợp. Việc lặp lại cũng thấy xuất hiện
trong hình thức đảo đối hay đóng khung. Phong cách lặp lại như vậy đánh dấu
việc chia thành những đoạn thơ, mỗi đoạn thơ lại được chia thành một đơn vị
trữ tình, gọi là “bài thơ” hay “bài ca”.
Đặc tính văn chương của Tình ca khá khác thường. Độc giả có thể dễ dàng nhận
ra sự phong phú của các hình ảnh được vẽ nên từ không gian của những cánh đồng
linh dương và hươu cái, bồ câu và cáo, chiên và dê. Những tặng phẩm của thiên
nhiên cũng rất nhiều: rượu vang và vườn nho, gỗ bá hương và gỗ trắc bá diệp,
quả sung và quả lựu. Các hình ảnh văn chương được lấy từ nhiều nơi trên thế
giới. Mặt khác, không chỉ địa điểm mà con người cũng thay đổi. Có một nhân vật
“gầy dựng niềm tin” về tình yêu, một sự lý tưởng hóa không giới hạn khi cặp
đôi yêu nhau nói về nhau. Cho nên, người ta nghe nói về “tháp ngà” (7,5) và
đôi môi chứa chan tươm một dược (5,13). Hình ảnh và chất thơ trong Tình ca
không phải để phân tích cho bằng để vui hưởng cho trí tưởng tượng của độc giả.
Tình yêu luôn tạo ra một thế giới riêng của nó.
Ngành chú giải (exegesis) hiện nay cũng xem Tình ca trước hết là bài ca hay
nhất trong Kinh Thánh. Tác giả Jean Pierre Sonnet (sinh 1955) xem cuốn sách
như “nhà xưởng” sản xuất các bài thơ.[5] Chúng ta biết rằng, tính song song –
đặc trưng của thơ ca Híp-ri – ít được sử dụng trong Tình ca, ngoại trừ những
chỗ nhấn mạnh sự xen kẽ giữa người nam và người nữ trong cuộc đối thoại. Trong
cuộc đối thoại ấy, nhờ lời nói mà họ hợp nhất với nhau; và trong các điệu hát
xen kẽ, thân thể họ cũng biến thành thơ ca nhờ vào hiệu lực của các phép ẩn dụ
(metaphora). Việc sử dụng liên tục các phép ẩn dụ là đặc điểm nổi bật về thơ
ca của cuốn sách. Đó cũng là sự biểu lộ của một thứ tình yêu phải chịu những
đối nghịch. Rất nhiều hình ảnh trong sách mang tính ẩn dụ: thiên nhiên, trái
đất, các sản phẩm do bàn tay tài khéo của con người.[6]
Chúng ta có thể nói tới một số hình thức văn chương xuất hiện trong cuốn sách:
các bài thơ diễn tả sự khát khao (1,2-4; 2,14-15), trêu chọc (1,7-8; 2,15),
ngưỡng mộ (1,15–2,3; 4,9–5,1; 6,4-7), hồi tưởng (2,8-13), ngoa dụ (6,8-10), và
sự miêu tả về sức hấp dẫn thể lý (được gọi là wasf, 4,1-7; 5,10-16; 7,1-6).
Người ta thấy rằng, các hình thức tương tự cũng xuất hiện trong các bài tình
ca của người Ai-cập cổ đại.
D. Tính thống nhất
Một số học giả phủ nhận tính thống nhất trong cuốn sách và đi đến kết luận
cuốn sách chỉ đơn thuần là hợp tuyển tình ca (hay tình thơ), thậm chí có nhiều
bàn tay soạn tác. Chẳng hạn, Othmar Keel, Tremper Longman và Yair Zakovitch
xem cuốn sách như một thánh vịnh tình ái, một hợp tuyển của nhiều bài ca: 23
bài (Longman), 32 bài (Zakovitch), 43 bài (Keel).
Tuy nhiên, dưới lối tiếp cận thuật chuyện – cấu trúc, có thể thấy sách Tình ca
tuy mang dáng vẻ của một hợp tuyển tình ca nhưng không phải không có dấu hiệu
của sự thống nhất xuyên suốt. Chẳng hạn, sách có một số đoạn điệp khúc (2,7 =
3,5 = 8,4; 2,6 = 8,3), rất nhiều từ và cụm từ được lặp đi lặp lại, các chủ đề
giống nhau cũng thường xuất hiện, cấu trúc cũng khá phức tạp. Mặt khác, có
những thay đổi đột ngột trong cuộc đối thoại (2,13-15; 3,5-6) và một cảnh
(scene) rất khó lý giải (5,1-2). Gianni Barbiero (sinh 1944) cho rằng, nếu
cuốn sách không phải là một thể thống nhất về mặt văn chương thì nó vẫn cho
thấy sự thống nhất về mặt thi ca, và đó là sự thống nhất do ý định của tác giả
chứ không phải ý định của người biên soạn.[7]
Nhiều khả năng bản văn mà chúng ta có hiện nay chỉ do một tác giả viết ra hoặc
biên tập lại, như học giả Harold Henry Rowley († 1969) nhận định: “Sự lặp lại
như thế cho thấy dấu vết của một bàn tay duy nhất, đồng thời sự thống nhất về
chủ đề và phong cách văn chương thì nổi bật hơn so với giả thuyết cho rằng
cuốn sách là một hợp tuyển do nhiều tác giả và đến từ nhiều nguồn khác
nhau.”[8]
Khi khảo sát toàn bộ cuốn sách, học giả Jack S. Deere đưa ra bốn nhận định ủng
hộ tính thống nhất này như sau: 1/ Các nhân vật giống nhau: người thiếu nữ
được yêu, người tình và các thiếu nữ Giêrusalem. 2/ Nhiều lối diễn đạt và hình
thái tu từ tương tự nhau, chẳng hạn: tình yêu thì đê mê hơn rượu (1,2; 4,10),
mùi hương (1,3.12; 3,6; 4,10), đôi má của người tình (1,10; 5,13), đôi mắt
nàng như chim bồ câu (1,15; 4,1), răng nàng như con chiên (4,2; 6,6), lời van
nài của nàng dành cho các thiếu nữ Giêrusalem (2,7; 3,5; 8,4), người tình tựa
như linh dương (2,9.17; 8,14), Li-băng (3,9; 4,8.11.15; 7,4), và nhiều lần đề
cập đến thiên nhiên. 3/ Có nhiều đặc trưng của ngữ pháp Híp-ri chỉ tìm thấy
trong cuốn sách này lại càng củng cố cho giả thuyết chỉ có một tác giả duy
nhất. 4/ Sự tiến triển của chủ đề ám chỉ đây là một tác phẩm duy nhất, không
phải hợp tuyển các bài thơ.[9]
Ngoài ra, hình ảnh vị hôn thê được điểm tô như “người đẹp nhất trong các phụ
nữ” (1,8; 5,9; 6,1) còn lang quân thì ra như đang chăn bầy chiên của mình
“giữa những khóm huệ” (2,16; 4,5; 6,2-3). Những chi tiết ấy là bằng chứng chỉ
ra bố cục thống nhất của cuốn sách vốn đã được viết ra hay biên soạn chỉ bởi
một tác giả.
Phần đông các học giả cho rằng, tiến trình hợp lý, lược đồ cũng như cấu trúc
đối ngẫu (chiasmus) là những lối tiếp cận thích hợp đối với sách Tình ca.
E. Các lối giải thích
Chúng ta biết rằng, vào thời Trung cổ, Tình ca đã có mặt trong các bài đọc
phụng vụ, nhưng bị nhận xét như một cuốn sách học đường hoặc thuật lại một tấn
bi kịch. Việc giải thích cuốn sách chắc chắn bị chi phối bởi lối tiếp cận
phúng dụ, tuy chìa khóa để tiếp cận cuốn sách có thể có rất nhiều: các nhân
vật chính lại được quy về cho Đức Kitô và sự khôn ngoan, cho các giám mục và
Hội thánh địa phương của họ, cho linh hồn và Thiên Chúa. Tương tự, việc áp
dụng cho Đức Maria cũng không phải hiếm. Do đó, ở Tây phương lúc bấy giờ, Tình
ca có được một vị thế đặc biệt không kém các sách đầu tiên trong Kinh Thánh;
nó là nguồn mạnh chân thực của tâm linh Kitô giáo và có rất nhiều cách giải
thích khác nhau.
Tháng 9 năm 2001, Hiệp hội Công giáo Pháp về Nghiên cứu Kinh Thánh (ACFEB) đã
tổ chức một hội nghị bàn về sách Tình ca. Các bản đúc kết (actes) được xuất
bản dưới tựa đề “Les nouvelles voies de l’exégèse”[10], đã đưa ra khá nhiều
lối tiếp cận khác nhau. Các lối tiếp cận đã tạo nên một tổng thể đẹp, cho phép
độc giả có thể đánh giá vẻ đẹp và tính phức tạp của việc tiếp cận sách này,
cũng như hứng thú khi khám phá đặc tính chồng chéo của các lối tiếp cận khác
nhau. Tình ca đầy rẫy những điểm hết sức nghịch lý, đặt ra nhiều vấn đề cho
việc chú giải. Rất nhiều đoạn trong sách còn tối nghĩa, ngay cả đối với các
học giả Do-thái. Bản Masorah còn nhiều chỗ ghi “tối nghĩa” hoặc “dịch phỏng
đoán”.
Lịch sử giải thích Tình ca cũng khá phức tạp. Phần lớn các nghiên cứu hiện đại
về nó đều công nhận có nhiều lối tiếp cận. Bởi lẽ theo Saadia ben Joseph (†
942), một học giả người Do-thái vào thời trung cổ, Tình ca là cuốn sách đã mất
chiếc chìa khóa giải mã. Tuy nhiên, có hai lối giải thích căn bản trong suốt
dòng lịch sử: phúng dụ và văn tự. Phần sau của bài viết sẽ điểm qua hai lối
giải thích này. Đặc biệt, sự phát triển của các biến thể trong mỗi lối giải
thích cũng là điều đáng quan tâm.
F. Cấu trúc
Cho đến ngày nay, vẫn chưa có sự thống nhất giữa các tác giả về cấu trúc văn
chương của Tình ca. Tùy vào đường hướng tiếp cận riêng mà các tác giả có những
cách phân chia khác nhau. Chẳng hạn, André Chouraqui († 2007) và sau này là
Gianni Barbiero (sinh 1944) đề nghị một cấu trúc mang tính “giao hưởng” vì cho
rằng Tình ca chẳng khác gì một bản giao hưởng tình yêu.[11]
Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu lối phân chia của tác giả Roland E. Murphy,
O.Carm.[12] vốn lấy diễn biến của cuộc đối thoại làm cơ sở.
- (I) Đề sách (1,1)
- (II) Giới thiệu (1,2-6)
- (III) Đối thoại giữa các tình nhân (1,7–2,7)
- (IV) Hồi tưởng (2,8-17)
- (V) Lạc mất và Khám phá (3,1-5)
- (VI) Lễ cưới của Salômôn (3,6-11)
- (VII) Đối thoại giữa các tình nhân (4,1–5,1)
- (VIII) Đối thoại giữa người Phụ nữ với các Thiếu nữ Giêrusalem (5,2–6,3)
- (IX) Đối thoại giữa các tình nhân (6,4-12)
- (X) Đối thoại (7,1–8,4)
- (XI) Phụ trương (8,5-14)
II. Các lối giải thích Tình ca trong lịch sử
A. Lối giải thích Phúng dụ
Giải thích phúng dụ (allegoria) hướng tới lối đọc thiêng liêng, ít quan tâm
đến cuộc đối thoại trong tình yêu mà hướng tới ý nghĩa ẩn giấu nơi mỗi nhân
vật. Truyền thống Do-thái và Kitô giáo, từ thời ông Origène cho đến công đồng
Vaticanô II, đã thích nghi lối đọc này, vì nó có lợi thế về mặt truyền thống.
Khởi đi từ kinh nghiệm về tình yêu Thiên Chúa, đặc biệt trong giao ước (cộng
đoàn Do-thái hậu lưu đày kín múc đức tin của mình qua việc đọc Torah và các
Ngôn sứ hàng tuần), hoặc khởi đi từ đời sống bí tích (cộng đoàn Kitô giáo được
khai sinh từ phép rửa), cả hai truyền thống đều nhìn thấy trong Tình ca giao
ước tình yêu mới mẻ giữa Thiên Chúa và dân Người, giữa Đức Kitô và Hội thánh
và với mỗi Kitô hữu.
1. Truyền thống phúng dụ Do-thái giáo
Các dấu vết về lối giải thích phúng dụ sách Tình ca có lẽ được tìm thấy sớm
nhất là trong Mishnah (Ta'anith 4.8) của người Do-thái, được viết vào khoảng
năm 200 CN (nhưng thật ra các ý kiến trong đó đã có từ vài thế kỷ trước). Về
sau, lối giải thích này cũng được tìm thấy trong bộ Midrash Rabbah, Targum, và
nơi các nhà chú giải Do-thái thời trung cổ: Saadia ben Joseph (882-942),
Shlomo Yitzchaki (1040-1105) và Abraham ben Meir Ibn Ezra (1089-1167).
Theo cha Murphy, chúng ta vẫn chưa biết nhiều về các giai đoạn đầu tiên của
việc giải thích Tình ca. Giả thuyết phổ biến nhất cho rằng, lịch sử giải thích
cuốn sách bắt đầu với một truyền thống Do-thái vốn tiếp cận theo lối phúng dụ
và tâm linh hóa. Theo đó, sách Tình ca có mục đích ca ngợi tình yêu giữa Thiên
Chúa và Israel: người đàn ông hay lang quân đại diện cho Thiên Chúa, còn người
thiếu nữ hay hiền thê đại diện cho Israel. Tình yêu trong cuốn sách đích thực
là tình yêu Thiên Chúa dành cho Israel nhưng không phải thứ tình yêu xác thịt
nam nữ. Truyền thống này cũng được du nhập vào Kitô giáo với một vài thích ứng
nhỏ.[13]
Chúng ta sẽ lần lượt điểm qua ba lối giải thích nổi bật theo nghĩa phúng dụ
của truyền thống Do-thái: rabbi Aqiba, bản Targum, và bộ Midrash Rabbah.
- Rabbi Aqiba (100 CN)
Người ta cho rằng, Aqiba, một rabbi Do-thái, là người đầu tiên sử dụng lối
giải thích phúng dụ đối với sách Tình ca. Ông chuộng lối giải thích theo nghĩa
phúng dụ hơn là nghĩa văn tự. Ông bênh vực tính thánh thiêng và hợp quy điển
của Tình ca. Ông phản đối việc người ta sử dụng các bài tình ca trong sách để
hát xướng trong các phòng tiệc, quán rượu thời bấy giờ; hoặc một số xu hướng
Hy-lạp hóa làm giảm giá trị của thân thể và các thực tại ở trần gian. Ông
tuyên bố kẻ nào xem thường Tình ca, coi nó là một bài ca thế tục thì sẽ không
có phần trong thế giới mai hậu.[14] Hơn nữa, cả thế giới này không sao sánh
được với khoảnh khắc sách Tình ca được ban cho Israel, vì nếu tất cả Những
Điều Được Viết Ra (Scriptura) đều là Thánh, thì cuốn sách “Bài ca của các Bài
ca” là “Thánh của mọi sự Thánh”.[15] Vì thế, không được phép hát lên cuốn sách
này một cách bất xứng. Aqiba xem Tình ca như một cuộc đối thoại giữa Thiên
Chúa (người yêu) và dân Israel (kẻ được yêu).[16] Nhìn chung, đối với các
rabbi Do-thái, tình yêu của con người trong cuốn sách còn có thể chuyển đổi
thành các mối quan hệ khác, chẳng hạn nó có thể gợi lên mối quan hệ giữa
Israel và các dân tộc khác.
- Bản dịch Targum (thế kỷ VII-VIII)
Targum là bản dịch Kinh Thánh Cựu Ước sang tiếng Aram. Bản dịch Targum về sách
Tình ca được viết trong khoảng thế kỷ VII-VIII và là nguồn chính cho lối giải
thích phúng dụ của Do-thái giáo. Bản dịch này gợi ý, Tình ca là câu chuyện
lịch sử Israel từ cuộc xuất hành cho đến lúc tái thiết đền thờ Giêrusalem lần
thứ ba, nhằm diễn tả tình yêu sâu đậm giữa Israel và Thiên Chúa. Cuốn sách bao
gồm 10 bài ca, được ban cho nhân loại như một lịch sử cứu độ của Israel, dân
được Thiên Chúa tuyển chọn.
Bản Targum về Tình ca có thể được chia thành 5 phần: 1/ tiêu đề giới thiệu
kiểu giải thích Midrash về 10 bài ca với lời chúc tụng mở đầu (1,1-2); 2/ giai
đoạn từ cuộc lưu đày ở Ai-cập đến việc xây dựng nhà tạm, việc Israel khải hoàn
tiến vào đất hứa Canaan, công bố đỉnh cao vinh quang của triều đại Salômôn
(1,3–5,1); 3/ trình thuật về cuộc đánh chiếm Giêrusalem của dân Babylon,
Israel bị lưu đày sang Babylon, cuộc quy tụ của những người bị lưu đày trở về
và sự phục hồi chính thể lý tưởng cũng như vinh quang của triều đại Hát-mo-nê
(5,2–7,11); 4/ cuộc lưu đày của Ê-đom, bức tranh nhắc nhớ lại thời kỳ vua
Mêsia, sự phục hồi chính thể Salômôn dưới triều đại vua Mêsia (7,12–8,12); 5/
lời kêu gọi tha thiết mang tính ngôn sứ của vua Salômôn vào cuối đời dành cho
Israel và lời nguyện kết thúc (8,13-14).[17]
Có 4 đặc điểm trong Targum về Tình ca: 1/ biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa
dành cho Israel; 2/ sự nhấn mạnh về tội lỗi của Israel; 3/ việc xây cất nhà
tạm và giá trị mang tính đền bù của các nghi lễ trong đền thờ; 4/ vai trò rất
hạn chế dành cho vua Mêsia.[18] Bốn đặc điểm này được giải thích là sự phúng
dụ về câu chuyện tình yêu của Thiên Chúa dành cho Israel. Chúng cũng được xem
là có mục đích biện hộ, bảo vệ Kitô giáo và chống lại chủ nghĩa bí truyền
(esotericism) của Do-thái giáo.[19]
Tóm lại, Tình ca được cho là một bức tranh lịch sử của Israel. Bản Targum giải
thích cuốn sách như là sự biểu hiện của tình yêu nhân từ của Thiên Chúa đối
với dân Người. Mặt khác, vì cuộc Xuất hành là một biến cố có liên hệ nhiều
nhất tới lễ Vượt qua (x. Xh 12), cho nên lễ Vượt qua là thời điểm thật sự
thích hợp để đọc Tình ca, và sách này đã được đọc vào ngày thứ 8 của cuộc lễ.
Tuy nhiên, trong bản LXX, sách Tình ca lại được xếp sau sách Giảng viên, cũng
vì thế mà các bản dịch hiện đại về sau vẫn xếp như vậy.
- Midrash (thế kỷ VIII)
Bộ Midrash Rabbah có niên đại cùng thời với bản dịch Targum hoặc muộn hơn một
chút. Đó là sản phẩm của các tác giả Do-thái, những người đi theo lối giải
thích phúng dụ giống như bản dịch Targum. Họ mô tả ý nghĩa tình yêu trong Tình
ca như là tình yêu hỗ tương giữa Thiên Chúa và Israel, trong đó Thiên Chúa ban
lề luật và giải thoát dân khỏi Ai-cập, còn Israel đón nhận lề luật và sẵn sàng
chịu đau khổ vì Chúa. Tuy nhiên, trái ngược với Targum, Midrash giải thích
theo từng chữ, từng cụm từ và từng câu. Có nhiều câu được chia nhỏ để chú giải
mà không cần xét đến bối cảnh của nó.[20]
Dầu sao, cả Targum lẫn Midrash đều sử dụng lối giải thích phúng dụ – lịch sử
để nối kết sách Tình ca với các tình tiết trong lịch sử Israel. Cả hai đều
đồng hóa người nữ là Israel còn người nam là Thiên Chúa. Hạn chế của lối tiếp
cận này là cả hai đều thiên về mục đích của riêng mình hơn là đặt trong bối
cảnh mà cuốn sách muốn nói. Mặt khác, tuy lối giải thích Do-thái cổ cho thấy
nhiều chủ đề khác nhau về sự biểu trưng của tình yêu, nhưng xem ra không mấy
ai để ý tới lối giải thích văn tự và tự nhiên về tình yêu, cũng như ý nghĩa
tình ái nhục dục của cuốn sách.
2. Truyền thống phúng dụ Kitô giáo
Các nhà chú giải Kitô giáo xem lang quân là Đức Giêsu Kitô còn hiền thê là
Giáo hội. Đây là quan điểm chiếm vị thế ưu tiên trong suốt dòng lịch sử Giáo
hội, mặc dù vài thế kỷ trở lại đây nó đã không còn được ủng hộ nữa. Chúng ta
không biết rõ đến khi nào thì quan điểm này được các Kitô hữu chấp nhận, chỉ
thấy rằng nó đã từng được thánh Hippolytô nói đến trước tiên, sau đó là
Origène, một người có tầm ảnh hưởng rất lớn. Grêgôriô Nyssa († 395), Ambrôsiô
(† 397), Giêrônimô († 420), Cyrillô Alexandria († 444), Thêôđôrêtô Cyrus (†
457), Grêgôriô Cả († 604), Bêđa Khả kính († 735),… là những tác giả tiếp theo
chịu ảnh hưởng từ Origène. Sang thiên niên kỷ II, ảnh hưởng của Origène vẫn
còn mạnh mẽ ở Tây phương: Rupertus Deutz († 1129), Anselmô Laon († 1117),
Guillaume de Saint-Thierry († 1148),[21] và nhất là thánh Bernađô[22] cùng các
tác giả đan tu khác. Dĩ nhiên, bên cạnh cái chung, mỗi tác giả cũng phát triển
cái riêng của mình và ít nhiều có những khác biệt. Chúng ta sẽ điểm qua mô
hình cổ điển của các giáo phụ trước khi nói tới các biến thể theo dòng lịch
sử.
a. Các giáo phụ
- Hippolytô Rôma (170-235)
Trước Hippolytô khoảng 100 năm, các rabbi Do-thái đã xem sách Tình ca là câu
chuyện tình yêu của Thiên Chúa dành cho Israel. Có lẽ lối hiểu này đã ảnh
hưởng lên Hippolytô vì ông sử dụng cùng một phương pháp như trong bản dịch
Targum để giải thích sách Tình ca. Chỉ có điều, ông chuyển đổi các biểu tượng
từ Thiên Chúa và Israel thành Đức Giêsu và Hội thánh.
Ông là Kitô hữu đầu tiên viết chú giải Tình ca thuần túy về mặt thiêng
liêng[23], tức là diễn tả cuộc hôn nhân giữa Hội thánh và Ngôi Lời Nhập Thể.
Tiếc là bản chú giải này chỉ là những mảnh nhỏ bằng tiếng Hy-lạp chứ chưa phải
một tác phẩm xuyên suốt. Tuy nhiên, ông không xem tình yêu trong cuốn sách
tượng trưng cho mối quan hệ giữa Thiên Chúa và từng linh hồn. Lối tiếp cận của
ông mang tính lịch sử – cứu độ, trong đó sách Tình ca như là “lời tiên tri của
Salômôn” về các giao ước cũ và mới, và Israel được giải thích là Hội thánh
được Thiên Chúa yêu thương. Chẳng hạn, ông hiểu câu “quân vương đã vời thiếp
vào cung nội” (1,4) là những người đã được Chúa Kitô kết hôn và đưa vào Hội
thánh; “bộ ngực” trong 4,5 được cho là biểu tượng của Cựu Ước và Tân Ước; và
“đồi nhũ hương” trong 4,6 hàm ý nói về địa vị cao quý dành cho những ai dám
đóng đinh tính ham muốn xác thịt của mình. Cách tiếp cận của Hippolytô được
nhận xét là một lối thông diễn rất cô đọng. Đây là lối tiếp cận dành cho những
ai muốn hiểu Kinh Thánh, bởi lẽ các hình bóng trong Kinh Thánh là biểu tượng
của sự thật, và biểu tượng của sự thật trong sách Tình ca đã được vua Salômôn
công bố và được ứng nghiệm nơi Đức Kitô nhờ ân sủng của Thiên Chúa.
- Origène (184-253)
Trong số các giáo phụ, Origène được xem như “nhà vô địch” trong việc giải
thích sách Tình ca theo lối phúng dụ. Ông không chỉ có hàng loạt các bài giảng
mà còn viết một bộ chú giải gồm 10 tập về cuốn sách này (khoảng năm 240-245);
nhưng thật không may, hầu hết các thủ bản đồ sộ tiếng Hy-lạp của ông về Tình
ca đã bị phá hủy hoặc thất lạc, chỉ còn hai bài giảng về Tc 1,1–2,14 được lưu
lại trong bản dịch tiếng La-tinh của thánh Giêrônimô.[24]
Người ta thấy rằng, Origène chịu ảnh hưởng bởi lối giải thích theo truyền
thống Do-thái và bởi Hippolytô. Ông liên kết Tình ca với các sách khác trong
Kinh Thánh và xem mục đích của sách này là để đáp ứng nhu cầu thiêng liêng của
độc giả. Ông đã kết hợp các quan điểm của Platon và phái Ngộ đạo với vấn đề
tính dục để làm thay đổi tính chất của Tình ca, biến sách này thành một vở bi
kịch thiêng liêng vượt thoát mọi ham muốn nhục dục. Độc giả được khuyên phải
khổ chế thân xác và không được xem cuốn sách có liên hệ đến các bộ phận chức
năng của cơ thể, nhưng phải đặt mọi thứ hướng tới sự hiểu biết các ý nghĩa
thần linh.
Sách Tình ca không diễn tả một mối quan hệ thể xác, nhưng diễn tả bản chất của
một thứ tình yêu thiêng liêng. Phải coi thường tất cả những gì thuộc thể xác
nếu muốn đạt được thứ tình yêu thiêng liêng này. Lối tiếp cận của ông mang
tính giáo hội khi xem Tình ca là sự ca ngợi Giao ước giữa Thiên Chúa và dân
Người, dù là Israel (được coi là Hội thánh của Cựu Ước) hay Hội thánh sau lễ
Ngũ tuần. Nhân vật nữ trong sách cũng được đồng hóa với toàn thể Hội thánh, và
từ đó mọi Kitô hữu đều được mời gọi đặt mình vào vị trí của hiền thê.[25]
Tóm lại, Origène xem Tình ca mang hàm nghĩa vượt khỏi mặt chữ bản văn hay các
khía cạnh tính dục. Ở một góc độ nào đó, lối đọc Tình ca của ông hoàn toàn
tránh được những lời lảm nhảm, hời hợt và bất xứng với Thiên Chúa. Ông chọn
lối tiếp cận này có lẽ vì ông chưa thể dung hòa ý nghĩa ham muốn nhục dục với
ý nghĩa thiêng liêng của bản văn. Lý do mạnh hơn là vì ông cảm thấy ý nghĩa
văn tự và tự nhiên của bản văn chỉ dành cho những người khiếm thính vốn bị lôi
cuốn bởi tình yêu xác thịt, và chỉ có những người trưởng thành (trên 30 tuổi)
mới được phép đọc sách này.[26] Lối giải thích của Origène xem ra phù hợp với
các đan sĩ, những người khao khát kiếm tìm tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng đừng
quên lối giải thích phúng dụ như thế sẽ xóa bỏ ý nghĩa thực tế của bản văn,
trong khi không thể phủ nhận Tình ca thật sự nói về những khoái lạc thân xác
với thứ ngôn ngữ gợi tình. Thánh Giêrônimô (k. 331-420) chấp nhận hầu hết các
quan điểm của Origène. Hệ quả là thánh nhân đã từng đưa lối giải thích phúng
dụ cuốn sách này vào trong các Giáo hội Tây phương.
- Grêgôriô Nyssa (330-395)
Grêgôriô Nyssa là một nhà tu từ học và thần học, kế thừa khuynh hướng thần bí
của Origène. Ông đã viết một bài chú giải Tình ca gồm 15 bài giảng, và đã diễn
giải đến đoạn 6,9 của cuốn sách.[27] Ông xem hiền thê là linh hồn con người,
nhưng không quan tâm nhiều đến sự đồng hóa nàng với Hội thánh. Với ông, con
đường hoàn hảo để đạt tới ơn cứu rỗi là bước vào sự kết hiệp thiêng liêng với
Thiên Chúa. Grêgôriô cho rằng, người ta có thể nhận ra ý nghĩa thiêng liêng
của mỗi câu trong Tình ca nhờ sự soi sáng từ những chỗ khác trong Kinh Thánh,
như cách mà ông đã làm. Hành trình đi tìm ý nghĩa thiêng liêng của cuốn sách
được ông gọi là epéktasis (hướng về phía trước), một thuật ngữ được rút ra từ
Pl 3,13-14. Thật vậy, sự vô hạn của đối tượng được khao khát (Thiên Chúa) làm
cho tâm hồn người yêu (con người) không bao giờ có thể thoả mãn hoàn toàn, vì
khả năng của linh hồn con người có giới hạn.
- Thêôđôrêtô Cyrus (393-457)
Thêôđôrêtô, giám mục Cyrus, đã cố gắng chứng minh một cách có phương pháp
rằng, sách Tình ca được viết như một câu chuyện phúng dụ, và do đó độc giả cần
tiếp cận theo lối phúng dụ. Dưới cái nhìn của ông, chính vị trí của Tình ca
giữa các quyển Sách thánh khác đã ảnh hưởng đến việc giải thích bản văn.
Phương pháp tối ưu là cần tìm kiếm cái mà ông gọi là “các kiểu diễn đạt phù
hợp với Sách thánh” (tês theias graphês ta idiômata), nghĩa là những đặc tính
thiết yếu của văn phong Sách thánh. Và ông cho thấy, phép ẩn dụ là hình thái
phổ biến trong Kinh Thánh. Ông thường chọn các sách ngôn sứ để làm ví dụ, nhất
là chương 16 của sách Êdêkien, vì các sách này ghi lại lịch sử của Israel
trong tương quan với Thiên Chúa của họ dưới phép ẩn dụ về mối quan hệ hôn nhân
đầy sóng gió. Tuy nhiên, không ai đạt được những ý tưởng như thế khi đọc các
bản văn này nếu không xem chúng dưới nhãn quan phúng dụ, và đối với Tình ca
thì cũng không ngoại lệ. Nơi Tình ca, Thêôđôrêtô cho rằng nhân vật nam chính
đại diện cho Thiên Chúa, còn cô gái trẻ là Israel hoặc Hội thánh. Với ông, chỉ
có lối đọc phúng dụ mới phù hợp với bản chất của sách Tình ca và cho phép độc
giả hiểu được điều Thánh Linh muốn nói. Nếu bất kỳ lối giải thích nào không
đạt tới cấp độ đó thì không xứng đáng với sách này, một quyển Sách thánh của
Thiên Chúa. Điểm thú vị nơi vị giám mục Cyrus là: ông thuộc trường phái
Antiôkia nhưng mâu thuẫn với chính tôn sư của mình (Thêôđôrê Mopsuestia), và
lại có sự nối kết với Origène thuộc trường phái Alexandria đối nghịch.
Thật vậy, quan điểm xem nhẹ và giảm thiếu khía cạnh tính dục của con người,
vốn rất phổ biến lúc bấy giờ, đã thổi bùng ngọn lửa giải thích Tình ca theo
chiều hướng phúng dụ. Cũng vì thế mà có rất ít tiếng nói bất đồng trong một
thời gian dài. Sự hưng thịnh của lối giải thích này là điều không ai có thể
chối cãi. Và hệ quả của nó là việc người ta coi nhẹ đời sống hôn nhân. Không
ít nhà thần học thật sự tán đồng quan điểm cho rằng mục đích duy nhất của sự
giao hợp vợ chồng là để sinh con cái, và trước khi Ađam sa ngã, sự giao hợp
này thậm chí chẳng cần thiết.[28]
b. Sự tiến triển của các lối giải thích phúng dụ
Các biến thể khác của lối giải thích phúng dụ trong dòng lịch sử, tính cho đến
ngày nay, đã có những điểm khác biệt so với kiểu giải thích cổ điển vốn cho
rằng các nhân vật trong sách đại diện cho Chúa Kitô và Hội thánh. Chúng ta lần
lượt điểm qua các quan điểm nổi bật:
- Hiền thê là Đức Maria, thân mẫu Chúa Giêsu. Học giả đầu tiên ở thời Trung cổ
áp dụng một lối chú giải thấu đáo về Đức Maria đối với sách Tình ca là
Rupertus von Deutz, hay Tuitiensis († 1129), người đã phát triển một lối tiếp
cận đã được thánh Ambrôsiô khởi xướng trước đó. Theo Rupertus, người nữ trong
Tình ca chính là hình ảnh của Đức Maria sau này, một nhân vật tiêu biểu nhất
của Hội thánh thời Tân Ước (x. PL 168, 837-962). Thật vậy, trong phong trào
Maria-luận của Công giáo Rôma, hiền thê trong Tình ca đôi khi được hiểu theo
nghĩa phúng dụ là Đức Maria, thân mẫu Chúa Giêsu. Chẳng hạn, câu: “Bạn tình
ơi, toàn thân nàng xinh đẹp, nơi nàng chẳng một chút vết nhơ” (4,7) được sử
dụng để ủng hộ đạo lý về sự thụ thai trinh khiết của Đức Mẹ.
Các thế hệ Tin lành đầu tiên đã chọn lối tiếp cận lịch sử Giáo hội (như sẽ
trình bày bên dưới) khi đọc Tình ca, và diễn giải hình ảnh hiền thê tượng
trưng cho linh hồn con người hoặc với chính Đức Trinh nữ Maria. Còn trong thần
học Công giáo, Michele Ghislieri, O.P. (về sau là Giáo hoàng Piô V) đã giải
thích cuốn sách như một vở bi kịch phúng dụ về mầu nhiệm nhập thể, trong đó
hiền thê được đồng hóa với Đức Maria.[29]
Về sau, quan điểm này đã được phú cho một động lực mới qua các nghiên cứu của
P. Alfonso Rivera, một người dường như đã liên kết quan điểm phúng dụ về Hội
thánh với Đức Maria. Tác giả cho rằng những gì là đúng về Giáo hội thì cũng
đặc biệt đúng về Đức Mẹ, người có mối liên hệ đầy vinh dự với Giáo hội.[30]
- Hiền thê như là một vương quốc dưới sự cai trị của vua Salômôn. Martin
Luther (1483-1546) cho rằng Tình ca là cuốn sách “vừa non nớt vừa lạ lùng” và
ý định của ông khi diễn giải sách này qua 24 bài giảng trên lớp tại Wittenburg
từ 1530-1531 đó là “để nắm bắt theo nghĩa đơn giản nhất và hiểu được nhân vật
thật sự của cuốn sách.”[31] Theo ông, Tình ca có mục đích cơ bản là “hướng dẫn
chúng ta bằng giáo huấn hữu ích cho đời sống, và thứ đến là hướng dẫn với
những lời ủi an.”[32] Cũng trên cơ sở đó, ông bác bỏ quan điểm cho rằng cuốn
sách chỉ là những lời bài hát yêu đương tình ái, được vua Salômôn sáng tác
trong cuộc hôn nhân với con gái Pharaoh.
Ông đưa ra lý thuyết cho rằng nhân vật nam chính của cuốn sách là hình bóng
của Thiên Chúa hoặc Ngôi Lời. Hiền thê được tuyển chọn là thần dân trong vương
quốc thái bình thịnh vượng dưới sự cai trị của vua Salômôn, và phần nào đó
cũng đại diện cho Hội thánh đã được kết hôn với Chúa Kitô. Mặt khác, cuốn sách
cũng là một bài thánh thi vua Salômôn tạ ơn Thiên Chúa vì phần lãnh thổ mà
mình được cai trị, một ân ban thần linh. Ông lý giải quan điểm của mình bằng
cách kết nối mục đích của ba quyển sách: Châm ngôn, Giảng viên và Tình ca. Nếu
sách Châm ngôn chỉ dẫn cách chung cho dân Israel những vấn đề liên quan tới
lòng đạo đức, mực thước trong gia đình, thì Giảng viên và Tình ca hướng tới
các vấn đề lớn hơn liên quan tới vương quốc (state). Cụ thể, Tình ca là một
tập thơ về trật tự chính trị, trong đó vua Salômôn ca ngợi chính phủ của ông
để đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho: “Vua tạ ơn Chúa về phúc lành cao
trọng nhất, đó là thái bình ở bên ngoài. Vua làm điều này như một tấm gương
cho giới đàn ông, để họ học biết cách tạ ơn Thiên Chúa, biết nhìn nhận phúc
lộc cao trọng nhất Người ban cho, biết cầu nguyện để sửa chữa khi có điều chi
đáng chê trách xảy ra trong vương quốc.”[33]
Cũng nên biết thêm là nhánh Tin lành Geneva (Jean Calvin [† 1564], Theodorus
Beza [† 1605],…) đã không chọn theo hướng này nhưng trung thành với quan điểm
truyền thống: Tình ca là lời ngôn sứ về cuộc hôn nhân giữa Chúa Kitô và Hội
thánh.
- Trình thuật ngôn sứ về lịch sử Giáo hội. Đây cũng là quan điểm do các tác
giả Tin lành khởi xướng. Quan điểm này được ủng hộ mạnh mẽ nơi nhóm Tin lành
hệ Thanh giáo ở Anh (Puritan divines): Thomas Brightman[34] († 1607) và John
Cotton[35] († 1652). Tại Đức, có thể nhắc tới Johannes Cocceius[36] († 1669),
một người theo lý thuyết liên bang (federalist). Ông trình bày cuốn sách như
một trình thuật ngôn sứ về các giao dịch và sự kiện sắp diễn ra trong Giáo
hội. Các phần của cuốn sách tương ứng với các giai đoạn lịch sử Giáo hội,
tương ứng với bảy tiếng kèn và bảy ấn trong sách Khải huyền của thánh Gioan…
Sự diễn giải này trở nên đặc biệt đầy đủ và chi tiết với cuộc Cải cách và đạt
đến đỉnh điểm với chiến thắng trong tương lai của đạo Tin lành trên Kitô
giới.[37]
- Quan điểm hôn nhân huyền bí. Đây là quan điểm thuộc thần học huyền bí Công
giáo Rôma vào thế kỷ XVI. Theo đó, sách Tình ca dạy về “hôn nhân huyền bí” của
sự kết hiệp giữa linh hồn với Thiên Chúa khi sự “ý thức về tình yêu của Thiên
Chúa” trở nên rất siêu việt và thường trực.[38] Khi trải qua hàng loạt tình
trạng huyền bí để hiểu được thế nào là “ý thức về tình yêu của Thiên Chúa”,
linh hồn sẽ đạt tới đỉnh điểm là sự “kết hôn huyền bí” mà trong đó linh hồn
được hòa mình vào tình yêu của Người và được thanh tẩy khỏi mọi thứ tình yêu
chỉ vì bản thân mình. Các tác giả phát triển quan điểm này là: Têrêsa Avila
(Conceptos del Amor de Dios sobre algunas Palabras de los Cantares) và Gioan
Thánh giá (Cantico Espiritual), những người tiêu biểu cho truyền thống “kết
hôn thiêng liêng” giữa linh hồn cá nhân với Chúa Kitô.
- Quan điểm Thánh Thể. Quan điểm này có thể được xem là một biến thể của quan
điểm hôn nhân huyền bí. Theo đó, Tình ca đề cập đến sự kết hiệp huyền bí giữa
linh hồn và Thiên Chúa diễn ra trong lúc Hiệp lễ.[39]
3. Lối tiếp cận tiên trưng
Từ giữa thế kỷ V, lối tiếp cận tiên trưng bắt đầu bùng nổ. Đa số các tác giả
chọn cách giải thích Tình ca theo lối tiên trưng vốn bén rễ từ quy điển Thánh
Kinh, vì đây là bối cảnh mà cuốn sách có thể bộc lộ tất cả các ý nghĩa ngoài
nghĩa văn tự rất còn nông cạn lúc bấy giờ. Lối tiếp cận tiên trưng cho thấy sự
nối kết giữa Tình ca với cấp độ ứng nghiệm cao hơn nơi Đức Kitô và Hội thánh
(hoặc Đức Kitô và người tin) nhưng theo cách thức khác hơn một chút so với lối
giải thích phúng dụ truyền thống. Theo đó, có một sự khẳng định chắc chắn về
bối cảnh lịch sử của Tình ca, mặc dù xét cho cùng, nó cho thấy một cấp độ ý
nghĩa cao hơn. Tình ca là một bài thơ dựa trên một tình tiết lịch sử có thật
trong cuộc đời vua Salômôn với một thiếu nữ Shulammite.
Trong khi quan điểm phúng dụ truyền thống phủ nhận hoặc bỏ qua lịch sử tính
hay sự thật của trình thuật Cựu Ước và áp đặt một ý nghĩa thiêng liêng, tiềm
ẩn và sâu xa hơn trên bản văn Tình ca, thì quan điểm tiên trưng nhìn nhận giá
trị của trình thuật Cựu Ước theo đúng nghĩa của nó, và tìm thấy trong trình
thuật này một sự liên kết rõ ràng và song song với một vài sự kiện hay giáo
huấn trong Tân Ước mà trình thuật Cựu Ước đã báo trước.[40] Theo quan điểm
tiên trưng, bối cảnh lịch sử được nhìn nhận xứng đáng. Sự tương ứng giữa câu
chuyện và sự ứng nghiệm sau cùng của nó cũng không cần phải quá “chặt chẽ” như
trong lối giải thích phúng dụ.
Lối lý giải tiên trưng vẫn dựa trên ý tưởng cho rằng mẫu (type) và đối-mẫu
(antitype) không hoàn toàn trùng khớp;… thiên đàng tuy ghi dấu chính nó trong
trần gian, nhưng đồng thời cũng vô cùng khác biệt với trần gian. Bên cạnh đó,
việc chú giải lịch sử – đạo đức được coi như là công việc thích hợp của một
nhà chú giải. Nhưng bởi vì vua Salômôn là một kiểu mẫu (vaticinium reale) của
vua Đavít – hiểu theo nghĩa thiêng liêng – trong sự vinh hiển của ông, còn
trần gian thì yêu hình bóng của thiên đàng, và Tình ca là một phần của lịch sử
thánh thiêng và là quyển Sách thánh nằm trong quy điển, cho nên chúng ta sẽ
không bỏ qua một chút nào việc chỉ ra rằng tình yêu tồn hữu giữa Đức Kitô và
Hội thánh đã được tiên báo trong đó.[41]
Tác giả Merrill Frederick Unger († 1980) bảo vệ lối tiếp cận này qua việc lưu
ý rằng, sự lý giải tiên trưng có thể được tìm thấy ở những chỗ khác trong Kinh
Thánh, đặc biệt liên quan tới vấn đề hôn nhân:
Quan điểm tiên trưng rất nổi bật trong Kinh Thánh. Cả trong Cựu Ước lẫn Tân
Ước, mối quan hệ giữa Đức Chúa và dân Người đều được minh họa dưới hình ảnh
hôn nhân. Israel là hiền thê của Giavê (Hs 2,19-23), nhưng vì tội lỗi và sự
bất tín của hiền thê nên đã dẫn tới sự chia lìa mà vẫn chưa được phục hồi (Is
54,5; Gr 3,1; Hs 1-3) trong vinh quang và ân sủng tuyệt hảo. Chúng tôi tin đó
là một khía cạnh của tình yêu hỗ tương được nêu bật trong Sách thánh. Mặt
khác, Hội thánh Kitô giáo được giới thiệu như một trinh nữ đã được Đức Kitô
cưới về (2 Cr 11,2; Ep 5,23-32; Kh 19,6-8) và cũng được phản chiếu một cách
tiên trưng như là một phần của những kẻ được cứu chuộc.[42]
Trong Kinh Thánh, có một số chỗ cho thấy sự ứng nghiệm tiên trưng, và một số
câu hay đoạn văn có thể là sự ứng nghiệm tiên trưng – ngôn sứ (Tv 22). Chẳng
hạn, vua Salômôn được xem như một hình mẫu của Đức Kitô (2 Sm 7,12-17; 23,1-7;
Tv 72; Mt 12,42). Quan điểm tiên trưng có một số đòi hỏi về tính chính thống,
vì thế chắc chắn quan điểm này khả thi hơn quan điểm phúng dụ truyền thống vì
thực tế nó có những ràng buộc nhất định. Tuy nhiên, vấn đề không phải là liệu
lối tiếp cận tiên trưng có hợp lý hay không, mà là liệu Tình ca có nên được
giải thích theo lối này hay không. Các học giả cho rằng, bản thân bản văn Tình
ca không chứa đựng dấu hiệu cho thấy nó cần được hiểu theo lối tiên trưng,
cũng không có bất kỳ dấu hiệu nào trong Tân Ước cho thấy Tình ca cần được lý
giải và áp dụng theo lối Kitô học. Do đó, nếu lý giải Tình ca theo quan điểm
tiên trưng thì đó là lựa chọn của nhà chú giải chứ không phải bản văn Kinh
Thánh tự đề nghị như thế.[43]
4. Nhận định chung về lối giải thích phúng dụ
Những người đề xướng phương pháp phúng dụ cho rằng Kinh Thánh có sử dụng
phương pháp phúng dụ ở những chỗ khác (chẳng hạn: Tv 45 và Is 51,1-17). Ngoài
ra, ở những chỗ ngoài Tình ca, Kinh Thánh cũng sử dụng mối quan hệ hôn nhân để
vẽ nên một chân lý thiêng liêng hơn, như có thể thấy nơi các ngôn sứ khi mà
mối quan hệ hôn nhân mang đặc tính loại suy từ vị thế của Giavê đối với Israel
(Is 54,6; 61,10). Tác giả Clarence Hassell Bullock (sinh 1939) chỉ ra rằng,
sách Tình ca có nhiều biểu tượng và hình ảnh diễn đạt, cho nên ý nghĩa phong
phú của các biểu tượng có xu hướng đẩy nhà chú giải đi theo hướng phúng dụ
hoặc tiên trưng, bởi vì ý nghĩa này dường như sẽ không được khai thác cặn kẽ
nếu áp dụng kiểu lý giải theo nghĩa văn tự.[44]
Tuy nhiên, nội dung Tình ca không ngụ ý nó phải được giải thích theo nghĩa
phúng dụ hay tiên trưng. Sự có mặt của các hình ảnh diễn đạt không cho phép
nhà chú giải xử lý bản văn theo phương pháp này một cách vô chừng mực. Tác giả
Dennis Franklin Kinlaw († 2007) lưu ý cuốn sách nhỏ này không có một cốt
truyện tiến triển rõ ràng, điều mà nhà chú giải thường mong đợi trong phương
pháp phúng dụ.[45] Đúng hơn, cuốn sách dường như nói về một giai đoạn lịch sử
trong cuộc đời vua Salômôn, điều có lẽ cần được hiểu theo nghĩa văn tự. Mặt
khác, như Gleason Leonard Archer Jr. († 2004) đã lưu ý, vua Salômôn với hậu
cung to lớn của mình chỉ cho thấy một sự tương đồng tồi tệ với Chúa Giêsu Kitô
mà thôi.[46] Lối giải thích phúng dụ sách Tình ca có thể hấp dẫn đối với trí
tưởng tượng của rất nhiều nhà chú giải, tuy nhiên nó không phù hợp với lối
thông diễn ngữ pháp – lịch sử – bối cảnh.
Tóm lại, lối đọc phúng dụ không thể giúp độc giả nắm bắt hết ý nghĩa trong
Tình ca vì bỏ qua các ý nghĩa hàm ẩn nơi tình yêu nam nữ của con người. Mặt
khác, tại sao cuốn sách không hề nhắc tới danh Thiên Chúa (trừ đoạn 8,6) mặc
dù người ta nói về tình yêu của Người dành cho Israel? Thật vậy, xem ra lối
tiếp cận này vẫn chứa đựng những lý giải hão huyền thiếu khách quan. Chẳng
hạn, Archer cho rằng 80 phi tần trong 6,8 được lý giải như 80 lạc giáo có ý
định gây tai họa cho Giáo hội; tuy nhiên cách lý giải này không có chứng cớ
trong thực tế.[47] Hay như chỗ: bộ ngực của hiền thê trong 4,5 và 7,8 được lý
giải theo nhiều hình ảnh khác nhau: Hội thánh, nguồn mạch nuôi dưỡng chúng ta;
hai giao ước Cũ và Mới; giới luật song sinh về yêu mến Thiên Chúa và yêu mến
người thân cận; Máu và Nước; Grêgôriô Nyssa tìm thấy trong đó con người bên
trong và con người bên ngoài, kết hiệp trong một hữu thể duy nhất có tình
cảm,...[48] Vậy đâu mới là giải thích hợp lý nhất?
Lối giải thích này lại càng bị đặt vấn đề khi về sau người ta khám phá tường
tận một nền văn chương tình yêu trong bối cảnh vùng Cận đông cổ với những lời
tương tự như trong sách Tình ca, nhưng không có ý nghĩa phúng dụ. Chúng ta sẽ
trở lại điểm này ở phần sau.
B. Lối giải thích Văn tự
Chúng ta bước sang một lối giải thích khác cũng rất đặc trưng, có nhiều biến
thể và nhận được sự quan tâm của nhiều học giả trong dòng lịch sử. Nếu các lối
giải thích phúng dụ và tiên trưng quan tâm đến ý nghĩa thiêng liêng vượt khỏi
mặt chữ, thì lối giải thích văn tự chú ý tới chính mặt chữ của bản văn. Chúng
ta biết rằng, một trong những nguyên tắc cơ bản của thông diễn học là nên chọn
ý nghĩa thông thường, rõ rệt, dễ hiểu nơi mặt chữ đối với bất kỳ đoạn văn nào,
trừ khi có những chi tiết buộc chúng ta phải hiểu theo lối khác.
Theo nghĩa văn tự, lối hiểu Tình ca phổ biến nhất là xem cuốn sách như mối
quan hệ tình ái lãng mạn của cặp đôi đang yêu. Lối tiếp cận này nhìn nhận cuốn
sách tựa như một bản tình ca mà người nam dành cho người nữ. Tình ca được giới
thiệu như một chú giải, triển khai các chương đầu của sách Sáng thế khi diễn
tả tình yêu giữa một người nam và một người nữ trong bầu khí tự do bình đẳng,
người này ở trước mặt người kia và hiện hữu cho người kia. Đó là một thứ tình
yêu mà những gì thuộc xác phàm bỗng trở nên thiêng liêng, thiêng liêng trở nên
xác phàm.[49]
Trước khi đi vào các lối giải thích văn tự, chúng ta sơ lược quan điểm của
giám mục Thêôđôrê ở Mopsuestia. Ông là tác giả tiêu biểu nhất chọn theo lối
giải thích này vào thời kỳ sơ khai. Lối giải thích văn tự của ông giảm thiểu
tối đa ơn linh hứng trong cuốn sách.
1. Thêôđôrê Mopsuestia (350-428)
Thêôđôrê là giám mục Mopsuestia ở Cilicia từ năm 392-428. Ông là một trong
những người đứng đầu trường thần học Antiôkia, rất có thế giá. Vào thời Hội
thánh sơ khai, Thêôđôrê là người quan tâm nhiều nhất đến lối tiếp cận văn tự
đối với sách Tình ca. Cho đến hôm nay, các học giả cho rằng Thêôđôrê không
viết một tác phẩm nghiên cứu toàn diện nào về sách này. Quan điểm của ông chỉ
được bộc lộ trong các trích dẫn của các lá thư gửi cho bạn bè, và những lá thư
này được lưu giữ như chứng cớ cáo buộc ông tại Công đồng Constatinopolis
II.[50] Trong các trích dẫn ấy, ông mạnh mẽ bác bỏ quan điểm cho rằng Tình ca
nên được hiểu như là lời ngôn sứ của vua Salômôn về mối tương quan giữa Đức
Kitô và Hội thánh. Thay vào đó, cùng lắm nó chỉ như một tác phẩm mang tính
giáo huấn hay hộ giáo mà thôi. Cuốn sách tựa như một bản tình ca thế tục miêu
tả tình yêu của vua Salômôn dành cho cô con gái da đen của Pharaoh đã kết hôn
rồi. Cũng vì thế mà Thêôđôrê nghĩ rằng bài ca thế tục này không xứng đáng nằm
trong quy điển.[51]
Tuy nhiên, lối tiếp cận văn tự của Thêôđôrô Mopsuestia dường như bị cô lập
trong bức tranh toàn cảnh của các lối tiếp cận thiêng liêng vốn dựa vào các ý
nghĩa tiên trưng và phúng dụ và khai thác các chi tiết của bản văn theo những
ngữ nghĩa khác nhau. [52] Những lối tiếp cận ấy đã lấn át quan điểm của
Thêôđôrê, và Công đồng Constantinopolis II (553) kết án quan điểm của ông là
lạc giáo.[53] Sự kết án này đã phủ bóng đen lên lối tiếp cận văn tự, do đó nó
hầu như không được chú ý qua nhiều thế kỷ.
Về sau, cũng có tác giả nhìn thấy quan điểm của Thêôđôrô đúng với thực tế, vì
sách Tình ca chưa bao giờ được đọc công khai trong các hội đường hoặc nhà thờ
mãi cho đến thế kỷ VIII. Nó chỉ được đọc vào dịp lễ Vượt qua mà thôi, một dịp
lễ tựa như một thực hành cổ xưa.[54] Vào thế kỷ IX, một giám mục người Syria
tên là Isho‘dad ở Hedatta († 872) lên tiếng bảo vệ Thêôđôrê và các môn đệ ông
vì cho rằng quan điểm liên kết sách Tình ca với con gái vua Pharaoh là đúng.
Thế kỷ XVII, Erasmus trở lại với lối thông diễn dựa trên “nghĩa bề mặt” theo
lịch sử – ngữ pháp của bản văn Kinh Thánh, gây ra ảnh hưởng trong giới nghiên
cứu. Vào thời hiện đại, quan điểm văn tự hồi sinh, thấy rõ nơi các tác giả
Moses Mendelssohn († 1786) và Christian D. Ginsburg († 1941). Ginsburg tuy đưa
ra giả thuyết về nhân vật thứ ba làm nghề chăn chiên nhưng phần kết luận lại
dựa trên lối giải thích văn tự, như chúng ta sẽ phân tích sau đây. Theo đó,
mục đích của cuốn sách không phải để ca ngợi tình yêu cho bằng ghi lại tấm
tương về đức hạnh.
2. Lối tiếp cận bi kịch
Robert Lowth († 1787)[55], về sau trở thành giám mục Anh giáo ở Luân đôn, đã
có nhiều đóng góp cho việc giải thích Tình ca trong thế kỷ XVIII. Lowth chú ý
vào thể loại văn chương, phong cách trình bày cũng như các chủ đề điền viên
của Tình ca, dựa trên việc đối chiếu với các nguồn Hy-lạp và Rôma cổ điển. Nói
cách khác, ông đã tái lập quan điểm của Origène khi cho rằng cuốn sách cần
được hiểu như một vở bi kịch còn thiếu sót (tức không mang tính sân khấu và
thiếu cốt truyện mạch lạc). Vở bi kịch này gồm các cuộc đối thoại với cấu trúc
lỏng lẻo và các đoạn độc thoại trữ tình. Nhưng dầu sao, cuốn sách vẫn mang một
hàm nghĩa dụ ngôn (parabola) khi diễn tả bức chân dung tình yêu hỗ tương giữa
Đức Kitô và Hội thánh.
Trong quan điểm xem Tình ca như một vở bi kịch (drama), một số tác giả cho
rằng có ba nhân vật chính trong vở kịch, nhưng cũng có người cho là chỉ có hai
thôi. Lý thuyết ba nhân vật xuất hiện trước tiên.
a. Lý thuyết ba nhân vật
Có lẽ người đầu tiên đề xuất lý thuyết ba nhân vật là học giả Do-thái Ibn Ezra
vào khoảng thế kỷ XII mặc dù ông vẫn chọn tiếp cận Tình ca theo lối phúng dụ.
Tuy nhiên, điểm nhấn thật sự của nó xảy ra vào cuối thế kỷ XVIII, khi Johann
Friedrich Jacobi khởi đầu công việc giải thích cuốn sách theo hướng bi kịch
một cách toàn diện. Ông đặt ra một cốt truyện tập trung vào những nỗ lực vô
ích sau cùng của vị vua chuyên chế Salômôn trong việc cạnh tranh với một người
chăn chiên khiêm hạ để giành lấy thiếu nữ Shulammite xinh đẹp.[56]
Lý thuyết ba nhân vật đã được tranh luận sôi nổi trong thế kỷ XIX. Georg
Heinrich von Ewald,[57] một học giả người Đức, đã phổ biến quan điểm cho rằng
chìa khóa để hiểu được Tình ca là nhận ra ba nhân vật chính trong cuốn sách:
vua Salômôn, thiếu nữ Shulammite và một người chăn chiên tầm thường. Theo ông,
thiếu nữ Shulammite đem lòng yêu thương người bạn chăn chiên, và sự căng thẳng
trong cuốn sách bắt nguồn từ việc vua nỗ lực chiếm đoạt cô. Nhà vua đã dùng vũ
lực để bắt cô về cung, nhưng khi cô từ chối sự tiến cung ấy thì vua cho phép
cô trở về nơi sinh sống của người tình thôn quê của cô.[58] Tác giả Jacobi thì
cho rằng, mục đích của Tình ca là để ca ngợi lòng chung thủy của một tình yêu
đích thực, và thiếu nữ Shulammite là nhân vật nữ chính của cuốn sách vì đã giữ
lòng chung thủy với người chồng chăn chiên khiêm hạ. Tác giả Pope giải thích
lập trường của Jacobi như sau: “Vua Salômôn say mê nhan sắc của cô thiếu nữ và
cố gắng thuyết phục nàng lìa bỏ chồng để vào hậu cung hoàng triều. Vua đã dụ
dỗ nàng bằng mọi thứ xa hoa lộng lẫy của triều đình. Tuy nhiên, cô từ chối tất
cả mọi cám dỗ và vẫn giữ lòng chung thủy với người chồng khiêm hạ.”[59]
Một trong những chú giải đáng chú ý nhất kể từ thế kỷ XIX thuộc về tác giả
Christian D. Ginsburg. Ông chịu ảnh hưởng lớn bởi lối chú giải của Jacobi. Ông
cho rằng Bài ca ghi lại câu chuyện có thật của một người phụ nữ khiêm hạ và
đức hạnh. Sau khi kết hôn với một người đàn ông cũng khiêm hạ như thế, cô chịu
nhiều cám dỗ lìa bỏ chồng để yêu một người đàn ông khôn ngoan bậc nhất, giàu
có bậc nhất. Nhưng cô đã chiến thắng mọi cám dỗ để giữ lòng chung thủy với
chồng, và sau cùng cô được khen thưởng vì đức tính chung thủy của mình.[60]
Lối giải thích này càng trở nên phổ biến khi được S. R. Driver áp dụng từ năm
1891.[61]
Tuy nhiên, quan điểm bi kịch gặp phải khó khăn khi tìm cách xác định lúc nào
thì hiền thê nhắm vào vua Salômôn, khi nào thì nhắm vào chồng? Một số tác giả
cho rằng, lúc hướng đến chồng là những lúc có kiểu diễn đạt “tình cảm mặn
nồng”, còn những chỗ diễn từ trang trọng thì hướng đến nhà vua. Còn sự ngưỡng
mộ dành cho hiền thê trong chương 4 được cho là của cả hai người đàn ông: nhà
vua (4,1-7) và người chồng chăn chiên (4,8-15).[62]
Như vậy, “giả thuyết về người chăn chiên” giúp lý giải tại sao bạn tình lại
được khắc họa trong vai trò mục tử, và tại sao bài thơ kết thúc ở khung cảnh
vùng đất phía bắc. Dù sao, vẫn có những nhà phê bình nghi ngờ về tính hợp lý
của quan điểm này. Trước tiên, quan điểm trình bày một bức tranh về nỗ lực dụ
dỗ của nhà vua, vì thế mà nhân vật này được khắc họa trong vai phản diện của
câu chuyện. Thứ đến, rất khó để lần theo bất kỳ sự tiến triển có tính thuyết
phục nào của cốt truyện. Thứ ba, không có chứng cớ nào trong bản văn cho phép
chỉ ra sự thay đổi của hai nhân vật nam. Thứ tư, người ta cũng không chắc liệu
một kẻ chăn chiên người Do-thái có đủ khả năng lo liệu những thứ xa xỉ được đề
cập trong một số đoạn văn quy cho anh ta hay không. Thứ năm, nếu giả định vua
Salômôn là một người chăn chiên thì cũng không có vấn đề gì, vì vua sở hữu
nhiều đàn chiên (Gv 2,7).[63]
b. Lý thuyết hai nhân vật
Theo tác giả Franz Delitzsch († 1890), Tình ca là một vở bi kịch khắc họa vua
Salômôn phải lòng một thiếu nữ Shulammite. Nói cách khác, Tình ca là một kịch
bản mà lúc đầu có mục đích để diễn hay để hát. Theo ông, vở kịch này gồm sáu
màn (act), mỗi màn có hai cảnh (scene)[64], trong đó vua Salômôn đưa cô gái
vào cung điện của mình ở Giêrusalem, nơi tình cảm của vua được thanh tẩy từ
ham muốn nhục dục sang tình yêu thanh khiết. Vì thế mà Delitzsch đã bác bỏ
“giả thuyết về người chăn chiên” cũng như những ai cho rằng hiền thê là con
gái của Pharaoh. Hiền thê ở đây là một thôn nữ ở vùng hẻo lánh xứ Galilê, xa
lạ với các cô gái Giêrusalem. Nàng là nữ chính của câu chuyện dù chỉ là một
thiếu nữ khiêm hạ.
Thiếu nữ Shulammite là hình mẫu về một cô gái có lòng tận tụy, khiêm hạ, giản
dị chất phác, trong trắng và cũng khôn ngoan, bộc trực. Nàng như bông huệ
ngoài đồng, được điểm trang lộng lẫy hơn những gì nhà vua có thể mang lại cho
nàng. Thật thế, độc giả sẽ không thể hiểu được sách Tình ca nếu không thấy
rằng, những gì hiện ra trước họ không chỉ là sự cuốn hút bề ngoài của thiếu nữ
Shulammite, mà còn có mọi đức tính vốn đã làm cho nàng trở thành hình mẫu lý
tưởng của tất cả những gì là dịu dàng nhất và cao quý nhất ở nơi người phụ nữ.
Đó là những đức tính trong cả lời nói lẫn sự im lặng, hành động và chịu đựng,
vui thú và hy sinh; cách cư xử trong tư cách là người đã hứa hôn, cô dâu,
người vợ; thái độ đối với thân mẫu, em gái và các anh em trai… tất cả mang lại
cho nàng ấn tượng về một tâm hồn tuyệt mỹ trong một thân xác được thành hình
từ bụi hoa.[65] Như thế, phải chăng nét đẹp của người thiếu nữ Shulammite đã
phần nào làm cho sự say đắm của vua Salômôn dần đi đến một tình yêu thanh
khiết?
Tuy nhiên, điều xem ra nghịch lý là Delitzsch cũng đi theo lối tiếp cận tiên
trưng khi cho rằng cuốn sách khắc họa sinh động mầu nhiệm tình yêu giữa Đức
Kitô và Hội thánh. Bởi lẽ nếu hiền thê là người đã làm cho nhà vua nhận ra
tiêu chuẩn lớn hơn của tình yêu, thì làm sao cuốn sách có thể tiên trưng cho
Đức Kitô và Hội thánh được, vì Đức Kitô luôn có một tình yêu lớn hơn mọi thụ
tạo, đã đong đầy đến nỗi không có thứ gì có thể làm cho tình yêu nơi Người to
lớn thêm?
Bên cạnh đó, cũng có nhiều tác giả khác không chấp nhận lập luận cho rằng Tình
ca thật sự là một vở bi kịch. Chẳng hạn, theo tác giả Dennis Franklin Kinlaw,
cuốn sách chẳng có sự chỉ dẫn diễn xuất nào, thiếu sự thống nhất về số lượng
nhân vật hoặc bảng phân chia ai sẽ nói gì, thiếu các dấu hiệu rõ ràng để phân
thành các màn và cảnh, và thực tế là hình thức kịch nghệ không thật sự phổ
biến ở phương Đông.[66] Theo Gordon Lloyd Carr (sinh 1930), hiếm có bất kỳ sự
diễn tiến nào trong mạch truyện mà người ta có thể mong đợi đó là một vở kịch,
mặc dù vẫn có những xung đột và sự giải quyết các xung đột đó (ví dụ ở 3,1-4;
5,2-7): “Các diễn từ dài dòng, thiếu diễn tiến của nhân vật, thiếu một cốt
truyện phát triển đến cao trào kịch tích cũng như việc giải quyết nó ra làm
sao, tất cả những điều này phản đối việc xem Tình ca như một ‘vở bi
kịch’”.[67]
3. Lối tiếp cận giấc mơ
Một vài học giả khẳng định rằng, phần lớn sách Tình ca có thể chỉ như một giấc
mơ hơn là phản ánh kinh nghiệm thực tế. Quan điểm này dựa trên một số tham
chiếu liên quan tới giường nằm, giấc ngủ và sự tỉnh thức. Chẳng hạn: “Suốt
đêm, trên giường ngủ, tôi tìm người lòng tôi yêu dấu.” (3,1); “xin đừng lay
vội, đừng đánh thức tình yêu” (3,5); “Tôi ngủ, nhưng lòng tôi chợt thức”
(5,2). Hay như những hồi tưởng ở các đoạn 2,3-7 và 8,5 hoặc 2,16-17 và 7,11.
Trong những sự hồi tưởng và giấc mơ như vậy, các nhân vật chính trong cuốn
sách nhớ lại những ngày khởi đầu của đời sống hôn nhân.
Lý thuyết về giấc mơ được đề xuất khoảng năm 1813 bởi một linh mục Công giáo,
Johann Leonhard von Hug († 1846).[68] Tuy nhiên, ông đã đưa lý thuyết này tiến
thêm một bước khi cho rằng nó chứa đựng một âm mưu chính trị. “Cô gái chăn
chiên trong giấc mơ đại diện cho mười chi tộc phía Bắc, dân Israel, và nỗi
trăn trở trong mơ là niềm khao khát của cô muốn được tái hợp với vua Giuđa để
hình thành một vương quốc Salômôn mới.”[69] Như vậy, theo quan điểm này, lang
quân được cho là vua Khít-ki-gia (k. 716-687) còn hiền thê là mười chi tộc
phía Bắc.
Năm 1948, Solomon Bennett Freehof († 1990) cũng đi đến kết luận Tình ca phản
ánh một giấc mơ, mặc dù ông không chấp nhận lý thuyết của Johann Leonhard von
Hug về một âm mưu chính trị. Freehof cho rằng đoạn văn 5,2 là khìa khóa để
hiểu toàn bộ cuốn sách.[70]
Gần đây, đoạn văn 2,8–8,4 được cho là có ý tưởng rõ ràng về một giấc mơ hơn
cả, vì người ta thấy phần điệp khúc ở 2,7 và 8,4. Cuốn sách mở đầu với tình
trạng hôn nhân của vua Salômôn và thiếu nữ Shulammite, cô gái ấy sợ hãi và bất
an trong môi trường sống mới. Còn phần giấc mơ ra như để gột rửa mối quan hệ
yêu đương này vì nó thuật lại những khoảnh khắc cốt yếu trong mối quan hệ ấy
(bao gồm cả buổi lễ cưới). Phần cuối của cuốn sách, đoạn văn 8,5-14, được xem
là phần sau giấc mơ. Phần này tựa như một cuộc đối thoại về tình yêu và tín
thác. Những lời tuyên bố về tình yêu của người thiếu nữ (2,16; 6,3; 7,10) cho
thấy sự tiến triển trong tính cách và sự trưởng thành trong tình yêu của cô.
Theo quan điểm giấc mơ, cuốn sách đổ lỗi cho hiền thê vì cô mắc bệnh ghen
tương, và căn bệnh ấy cần được tình yêu của vua Salômôn chữa trị bằng sự hợp
nhất và thanh tẩy.
Dù sao đi nữa lý thuyết giấc mơ cũng có những hạn chế, tiên vàn là tính mới lạ
của nó. Chúng ta có thể nêu lên vài điểm phê bình như sau: Trước hết, không có
dấu hiệu rõ ràng nào cho thấy phần lớn cuốn sách là một giấc mơ. Thứ hai, mục
đích của cuốn sách phải được xem xét tổng thể dựa trên bài học và kết luận ở
chương 8, vì trong chương này, hiền thê xuất hiện như một “người mang đến các
bài học” và là nhân vật nữ chính của cuốn sách (điều này cũng giả định vua
Salômôn mới là người có vấn đề lớn hơn). Tuy nhiên, như đã nói, có thể đoạn
văn 3,1-5 và 5,2-8 thực sự tương ứng với các giấc mơ, vì thế bất kỳ phân tích
nào về Tình ca cũng nên cân nhắc điểm này.
4. Lối tiếp cận thần thoại – tín ngưỡng
Vào đầu thế kỷ XX, một số học giả cho rằng, Tình ca có nguồn gốc từ tín ngưỡng
thờ cúng phồn thực (fertility worship) của ngoại giáo. Theo quan điểm này,
cuốn sách thật sự không nói gì tới tình yêu con người, mà là sự tôn vinh hôn
lễ thánh thiêng giữa một nữ thần trong thân phận một nữ thầy cúng với nhà vua,
hoặc kỷ niệm về sự chiến thắng của thánh vương trước cái chết và hạn hán. Do
đó, nguồn gốc của cuốn sách có thể nằm trong thần thoại và nghi lễ của người
Canaan, trong đó mỗi hành vi quan hệ tình dục của một nữ thần với tình nhân
của bà sẽ hồi phục khả năng sinh sản và phúc lộc cho lãnh thổ.[71]
Năm 1906, tác giả Friedrich Wilhelm Johannes Erbt († 1944) cho rằng Tình ca là
một tập thơ có nguồn gốc từ người Canaan. Tập thơ này miêu tả tình yêu giữa
nam thần mặt trời Tammuz (hay còn gọi là thần Dod, Shelem) với nữ thần mặt
trăng Ishtar (dưới tên gọi Shalmith).[72] Còn theo Neuschotz de Jassy,[73]
Tình ca bắt nguồn từ Alexandria trong thời kỳ vương triều Ptôlômêô, và về cơ
bản cuốn sách là một bản dịch nghi lễ Ai-cập sang tiếng Híp-ri. Đó là một nghi
lễ ca ngợi hôn lễ giữa thần Osiris (= vua Salômôn) và Isis (= thiếu nữ
Shulammite).[74]
Về sau, tác giả Theophile James Meek († 1966)[75] cũng cho rằng cuốn sách có
nguồn gốc từ nghi thức phụng tự của tín ngưỡng Adonis-Tammuz. Theo ông, cả
Tình ca lẫn Thánh vịnh 45 đều lưu giữ những đoạn văn của nghi thức phụng tự
sùng bái sinh sản của người Canaan cổ, đã được Israel thích ứng để dùng trong
việc thờ phượng Giavê và vợ của Người, một nữ thần ăn chay. Theo quan điểm
này, nhân vật nam chính trong Tình ca ban đầu là thần Adad của Canaan còn nữ
chính là “Shulammite” (Shulmanitu/Shala), một tên gọi theo địa phương ở
Palestina của nữ thần Ishtar.[76] Để bổ trợ cho lập luận này, nhiều người đã
chỉ ra các tham chiếu nơi các ngôn sứ có thể liên quan tới tín ngưỡng Tammuz,
chẳng hạn: Ed 8,14; Zcr 12,11. Không lâu sau, Wilhelm Wittekindt đã “nghĩ tới
bố cục của một nghi lễ phụng tự Giêrusalem nhằm tôn vinh sự kết hợp giữa
Ishtar và Tammuz vào lễ hội mùa xuân theo âm lịch.”[77] Tất nhiên, Tình ca
không còn ở dạng ban đầu nhưng đã được sửa đổi để trở nên vô hại và phù hợp
với việc thờ phượng Giavê. Những học giả khác, chẳng hạn William Oscar Emil
Oesterley († 1950) và Norman Henry Snaith († 1982), đã chấp nhận quan điểm này
mặc dù vẫn có một vài khác biệt nhất định. Tuy nhiên, quan điểm này tồn tại
không lâu. Khoảng giữa thế kỷ XX, những người ủng hộ bao gồm cả Meek đã bắt
đầu có xu hướng tách các bài thơ của Tình ca ra khỏi nghi thức phụng tự ca
ngợi một cuộc “kết hôn thần thánh”.
Cái khó đối với quan điểm này là sự nghi ngờ liệu các bài ca của tín ngưỡng
ngoại giáo có được đưa vào quy điển Do-thái hay không, đặc biệt là những bài
ca có chứa các chi tiết vô luân. Các học giả chấp nhận một vài hình thái của
quan điểm này là những nhà phê bình, những người xác định niên đại của Tình ca
khá muộn dựa trên cơ sở ngôn ngữ học (linguistic). Tuy nhiên, thời kỳ này ít
có khả năng xảy ra sự đồng hóa như thế, vì đang có khuynh hướng chống lại các
ngẫu tượng nơi Israel.
Quan điểm này đáng lẽ đã chìm vào quên lãng nếu không được Marvin H. Pope (†
1997) đề cập lại trong bộ chú giải Anchor Bible của ông. Pope cho rằng Tình ca
đã dựa trên nền tảng thần thoại – thờ cúng. Khi phân tích câu “Tình yêu mãnh
liệt như cái chết, cơn đam mê dữ dội như âm phủ” (8,6), Pope nối kết cuốn sách
với nghi thức tang lễ của vùng Cận Đông cổ. Tác giả Bullock tóm lược quan điểm
của Pope như sau:
Khi quan sát sự nổi bật được dành cho sức mạnh của tình yêu trên cái chết ở
8,6, ông đề xuất rằng nó có thể được nối kết với một buổi tang lễ cúng bái cổ
xưa, trong đó sự sống được tái khẳng định theo những cách thức cơ bản nhất,
bao gồm cả những buổi lễ xa hoa và những hoan lạc tình dục.[78]
Người ta cho rằng trong những buổi tang lễ như thế, tình yêu được tái khẳng
định khi đối diện với sức mạnh của cái chết, tức là, tình yêu là sức mạnh duy
nhất có thể đương đầu với cái chết. Tuy nhiên, quan điểm về “tang lễ” của Pope
cũng gặp nhiều chỉ trích giống như những quan điểm khác. Bởi lẽ thái độ mạnh
mẽ chống lại ngẫu tượng của thời kỳ hậu lưu đày không cho phép đưa vào quy
điển Do-thái những thói tục ngoại bang tà giáo như vậy.
5. Lối tiếp cận nhân học
a. Quan điểm văn tự – giáo huấn
Một số người cho rằng, mặc dù sách Tình ca nên được hiểu theo nghĩa văn tự với
những biểu hiện của niềm vui thỏa tính dục và lãng mạn trong hôn nhân, nhưng
đồng thời cuốn sách cũng truyền tải một bài học sâu sắc, như những lời chỉ dẫn
giáo khoa. Có nhiều lối nhìn khác nhau về bản chất của bài học luân lý trong
quan điểm này.
v Hôn nhân hướng tới một tình yêu lớn hơn. Vào thời Trung cổ, viện phụ
Guillaume de Saint-Thierry (k. 1085-1148) là người tiếp cận Tình ca theo
“nghĩa luân lý”. Ông cho rằng, Tình ca diễn tả ý nghĩa luân lý (sensum
moralem) về Lang quân và Hiền thê, về Chúa Kitô và linh hồn người tín hữu. Khi
đọc sách này, độc giả được mời gọi soi chiếu vào chính bản thân mình để nhận
ra ý nghĩa luân lý ấy, và “tình yêu” là phần thưởng dành cho nỗ lực soi chiếu
của độc giả. Nghĩa luân lý nhắm vào lối sống (mores), hành động của con
người.[79] Với ông, cuốn sách diễn tả tình yêu của chúng ta dành cho Thiên
Chúa và người thân cận. Ông cố gắng chỉ ra cho độc giả những chuẩn mực luân
lý, những chỉ dẫn và minh họa về kinh nghiệm tâm linh. Cuốn sách là một tấn bi
kịch, trong đó Thiên Chúa và linh hồn vừa là diễn viên cũng vừa là những người
giải thích. Theo ông, cách tốt nhất để đánh thức tình yêu Thiên Chúa nơi con
người (tình yêu thiêng liêng) là hãy bắt đầu từ kinh nghiệm về tình yêu nhục
thể, vì hai dạng tình yêu này nối kết nhau bằng một thứ tương quan bên trong.
Cũng có thể gọi đây là phương pháp sư phạm của Thánh Linh, vì Người gửi gắm
những ý nghĩa thiêng liêng vào các hình ảnh của tình yêu nhục thể. Chỉ có tình
yêu mới thấu hiểu những thực tại thánh thiêng. Tình yêu nhục thể vẫn được mời
gọi tham gia vào tình yêu thiêng liêng để được biến đổi, bởi lẽ tình yêu sẽ
nhanh chóng chiếm hữu đối tượng có cùng bản chất với nó. Trong tình yêu đích
thực, không thể thiếu sự khao khát chân lý, cũng không được gắn bó và dừng lại
quá dài hoặc quá ngắn nơi các hình ảnh trần tục. Và khi đã trở thành một con
người thiêng liêng, những thú vui của tình yêu nhục thể sẽ phục vụ cho tình
yêu thiêng liêng.[80]
Về sau, tác giả Edward Joseph Young († 1968) tiếp bước khi khẳng định cuốn
sách không chỉ ca ngợi phẩm giá và sự thanh khiết của tình yêu con người mà
còn hướng tới tình yêu vĩ đại hơn của Chúa Kitô.[81] Cần ghi nhận là quan điểm
của Young khác với quan điểm phúng dụ và tiên trưng, vì ông cho rằng cuốn sách
không phải một kiểu mẫu, nhưng vẫn có thể nhắc nhớ độc giả về tình yêu của
Chúa Kitô. Tương tự, với Dennis Franklin Kinlaw, Tình ca không chỉ “nói về hôn
nhân như nó phải là như vậy”, mà xem ra còn có điều gì đó sâu xa hơn: “phải có
điều gì đó mang tính sư phạm và cánh chung về hôn nhân.”[82]
Hạn chế của quan điểm này là bỏ qua bài học luân lý ở phần cao trào của cuốn
sách ở chương 8, đặc biệt là mô-típ “ghen tương”. Mặt khác, dường như quan
điểm chưa khai thác hết mục đích mà tác giả nhắm tới vì không tập trung vào
bài học luân lý mà chính tác giả đã cung cấp.[83]
v Sự khẳng định về tình dục do Thiên Chúa đặt định khi đề cao tính độc chiếm
và lòng chung thủy. Theo quan điểm này, Tình ca ca ngợi sự lành mạnh của tình
dục được Thiên Chúa đặt định, đồng thời cũng chỉ cho thấy tình yêu thì lớn hơn
tình dục, như được chứng thực bởi các yếu tố độc chiếm và chung thủy trong
cuốn sách.[84] Tác giả Robert B. Laurin († 1977) cho rằng, thời nay người ta
không đề cao sự chung thủy trong hôn nhân, và xem ra mục đích của tình yêu chỉ
nhằm thỏa mãn ham muốn. Nhưng Tình ca không chạy theo chiều hướng đó. Cuốn
sách nói về tình yêu riêng biệt của đôi bạn, họ quấn lấy nhau nhưng cả hai đều
thanh khiết, họ chung thủy với nhau và không ai làm gì có lỗi với đối phương.
Vì thế, người thiếu nữ nói với người tình của mình rằng cô đã dành riêng mọi
hoa trái ngọt ngào của tình yêu cho anh (7,13).[85]
Quan điểm này mới mẻ ở chỗ nó không chỉ tiếp cận cuốn sách theo nghĩa văn tự
để khẳng định giá trị của tình yêu hôn nhân và sự kết hợp tình dục, mà còn
nhấn mạnh đến lòng chung thủy và sự hiến dâng trong hôn nhân. Những đức tính
này được rút ra từ bài học luân lý trong chương cao trào của cuốn sách. Tuy
nhiên, khó khăn của phương pháp này là làm sao có thể tin được rằng, họ quấn
lấy nhau nhưng cả hai đều thanh khiết, họ chung thủy với nhau và không ai làm
gì có lỗi với đối phương? Bởi lẽ điều này có thể đúng với hiền thê, nhưng xem
ra không đúng với lang quân (nếu xem là biểu tượng của vua Salômôn). Mặt khác,
giả như cuốn sách đề cập đến lòng chung thủy và sự hiến dâng trong hôn nhân
thì xem ra không thể lấy vua Salômôn làm hình mẫu được.
b. Quan điểm hợp tuyển
Một số nhà chú giải cho rằng, sách Tình ca nên được hiểu về các biểu hiện tình
ái, lãng mạn của con người theo nghĩa văn tự, nhưng không phải là một tài liệu
thống nhất chỉ có một chủ đề, một mục đích. Thay vào đó, cần hiểu cuốn sách
như là một tuyển tập, một hợp tuyển các bài tình thơ hay tình ca. Trong số các
tác giả đi theo quan điểm này, có người xem cuốn sách có liên quan tới lễ cưới
của người Syria, có người thì không cho là như vậy.
v Hợp tuyển các bài hát đám cưới. Hugo Grotius († 1645), một luật gia người Hà
Lan, là người tiên phong tiếp cận Tình ca theo hướng chú ý đến những điểm
tương đồng với văn chương Hy-lạp, đặc biệt là “Idyls” nhục dục của Theocritus.
Theo đó, ông cho rằng cuốn sách chỉ là các bài thơ tình thế tục mà thôi.[86]
Giám mục Jacques Benigne Bossuet († 1707) giải thích cấu trúc và ý nghĩa văn
tự của cuốn sách trên cơ sở của một nghi lễ đám cưới vào thời vua Salômôn.[87]
Ông chia cuốn sách thành 7 phần (1,1–2,6; 2,7–17; 3,1–5,1; 5,2–6,9; 6,10–7,11
[10]; 7,12[11]–8,3; 8,4–14), và mỗi phần đại diện cho một ngày lễ cưới trong
một tuần (7 ngày) theo văn hóa Híp-ri. Mặt khác, theo nghĩa tiên trưng và dụ
ngôn, mỗi phần là mỗi giai đoạn của sự thăng tiến trong hôn nhân thiêng liêng
giữa linh hồn với đấng chủ thể tối cao của nó. Vào năm 1873, Johann Gottfried
Wetzstein († 1905), một viên lãnh sự người Đức tại Damascus, đã xuất bản một
nghiên cứu về các phong tục hôn nhân đương đại ở Syria, trong đó ông mô tả các
lễ hội kéo dài 7 ngày để vinh danh cô dâu và chú rể.[88] Cô dâu và chú rể sẽ
ngồi trên một tấm ván dùng để đập lúa (threshing sledge[89]) và được tuyên bố
là “đức vua” và “nữ hoàng”. Sau lời tuyên bố hôn lễ thành sự, người ta sẽ
khiêu vũ và một bài hát được gọi là “wasf” (tiếng Ả-rập) vốn nói về vẻ đẹp và
sự hoàn mỹ nơi thân xác của cô dâu và chú rể sẽ được cất lên, thậm chí cô dâu
còn trình diễn một điệu “múa kiếm” như trong thời chiến.[90] Đến năm 1898,
Karl Ferdinand Reinhard Budde († 1935)[91] đã phát triển lý thuyết xem Tình ca
như là những bài hát dân ca trong lễ cưới, và Otto Eissfeldt († 1973)[92] về
sau cũng ủng hộ lý thuyết này.
Dầu sao, quan điểm của Johann Gottfried Wetzstein vẫn có những hạn chế. Trước
tiên là hạn chế liên quan đến thời kỳ văn hóa: liệu có phù hợp khi đem so sánh
các bài ca đám cưới của người Syria vào những năm 1860 với tâm thức của người
Giuđa cổ đại? Thứ hai, cô dâu trong Tình ca không bao giờ được gọi là “nữ
hoàng”. Thứ ba, lý thuyết này đòi hỏi người ta phải xóa bỏ, hoán đổi vị trí và
sửa đổi nhiều thứ trong bản văn. Thứ tư, cấu trúc liên kết chặt chẽ của toàn
bộ bài thơ không cho phép hiểu nó là một hợp tuyển các bài tình thơ khác biệt
nhau.
v Một tập thơ tình rời rạc. Nhiều học giả hiện đại cho rằng cuốn sách thật sự
ca ngợi sự lãng mạn và tính dục con người nhưng nó chẳng có kết cấu thống nhất
theo chủ đề vì là một tập thơ chứ không phải một bài thơ.[93] Có lẽ Johann
Gottfried von Herder († 1803) đã nêu lên quan điểm này vào năm 1778. Quan điểm
này tuy thuận lợi để hiểu được cuốn sách theo nghĩa văn tự, nhưng cũng phải
đối mặt với nhiều chỉ trích. Bởi lẽ người ta thấy rằng, có rất nhiều bằng
chứng về cấu trúc, các điệp khúc lặp đi lặp lại và các kỹ thuật văn chương
xuyên suốt cuốn sách cho thấy chỉ có một bàn tay duy nhất đằng sau quá trình
soạn tác. Về vấn đề này, Gordon Lloyd Carr đã mở một cuộc thảo luận cho rằng
cuốn sách chỉ có một kết cấu duy nhất;[94] R. Kessler[95] nghiên cứu những lần
lặp đi lặp lại để đi đến kết luận cuốn sách chỉ do một bàn tay sáng tác;
Roland Kenneth Harrison nhận thấy có sự thống nhất giữa phong cách và chủ đề
chứ không hẳn cuốn sách là một tuyển tập đa dạng được soạn tác từ các tác giả
có độ tuổi khác nhau.[96]
c. Kiểu mẫu của tình yêu tự do
Tác giả André LaCocque (sinh 1927) cho rằng Tình ca không nói về sự kết hợp
của hai vợ chồng (đã kết hôn) nhưng cho thấy âm điệu bập bùng của một thứ
“tình yêu tự do” không cần phải được công nhận hay thể chế hóa.[97] Dĩ nhiên,
cặp đôi này chung thủy với nhau, và sự chung thủy ấy vượt khỏi các ràng buộc
hôn nhân hay xã hội. Tình ca vượt khỏi những lời ca ngợi về đức tính thanh
sạch của một người phụ nữ (x. Đnl 22,13-19) hay vai trò làm vợ, làm mẹ (x. Cn
31). Các tác giả cũng lưu ý, hạn từ kallah (người yêu sắp cưới) xuất hiện liên
tục từ đoạn 4,8–5,1 không được hiểu theo nghĩa thể chế hôn nhân, điều khoản
luật pháp, nhưng là một “danh hiệu uy nghi”.[98] Mặt khác, việc đưa sách Tình
ca vào quy điển Sách thánh cũng không loại trừ việc người ta muốn xem cuốn
sách như lời ca ngợi tình yêu tự do của con người.
Với André LaCocque, tình yêu nam-nữ trong Tình ca đã vượt khỏi giới hạn luân
lý thông thường, và do đó cho phép tác giả tách tình yêu ra khỏi cảm giác tội
lỗi hay xem tình yêu là xấu xa, cũng như dễ dàng ca ngợi eros mà không vướng
phải rào cản tôn giáo nào. Quan điểm của ông nằm trong việc so sánh giữa hai
bản văn: bản văn thần học (St 2–3) và bản văn biểu tượng (Tình ca). Theo ông,
Tình ca đã vượt xa quan điểm thần học của nguồn J (Giavít) cũng như nhiều
khuynh hướng thần học khác trong văn chương Kinh Thánh, khi dám đề cao tình
yêu eros của con người.[99] Eros tuy là một thực tại ngoại giáo nhưng nó không
phàm tục, nó có giá trị của nó. Đây cũng chính là thông điệp thần học mà Tình
ca muốn mang lại.
Tuy nhiên, theo Gianni Barbiero (khác với quan điểm của André LaCocque), những
cử chỉ yêu thương trong sách chỉ có thể được nhìn nhận trong bối cảnh hôn nhân
gia đình mà thôi.[100]
d. Một cách diễn đạt lãng mạn của tình yêu con người
Một vài tác giả cho rằng sách Tình ca đơn giản chỉ là sự ca ngợi niềm vui
sướng của tình ái lãng mạn giữa người nam và người nữ theo kiểu thơ ca. Chẳng
hạn, Gordon Lloyd Carr xem cuốn sách là sự ca ngợi bản tính con người, trong
đó người nam và người nữ bày tỏ và tận hưởng thú vui tính dục trong đời sống
hôn nhân.[101] Craig Glickman và Jack S. Deere cũng có cùng quan điểm như vậy.
Theo Jack S. Deere, cấu trúc và sự thống nhất của Tình ca có liên hệ tới các
giai đoạn trong mối quan hệ giữa vua Salômôn và hiền thê. Các phần chính của
sách đề cập tới sự tán tỉnh (1,2–3,5), lễ cưới (3,6–5,1) và sự trưởng thành
trong hôn nhân (5,2–8,4). Sách kết thúc bằng một lời tuyên bố cao trào về bản
chất của tình yêu (8,5-7), và phần lời bạt lý giải tình yêu đôi lứa đã bắt đầu
như thế nào (8,8-14). Nhìn cách tổng thể, cuốn sách nhằm mục đích ca ngợi hôn
nhân và tình yêu con người. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Thiên Chúa đưa vào
quy điển một cuốn sách công nhận vẻ đẹp và sự thanh khiết của tình yêu hôn
nhân. Bởi lẽ thế gian kinh tởm tình dục, hiểu sai về tình dục, và vì có quá
nhiều cuộc hôn nhân tan vỡ vì thiếu tình yêu, trách nhiệm, hy sinh,… cho nên
sẽ thật lợi ích khi có một cuốn sách trong Kinh Thánh nhìn nhận tình yêu vợ
chồng là hữu ích và trong sạch.[102]
Vì cho rằng tình yêu giữa vua Salômôn và hiền thê là hình mẫu của một thứ tình
yêu lãng mạn, nên quan điểm này cũng gặp phải những ý kiến trái chiều. Bởi lẽ
vua Salômôn không phải một ví dụ phù hợp cho thứ tình yêu cao quý này, khi so
sánh với các chuyện tình của vua được nói ở những chỗ khác, như ở 1 V 11, hay
ở ngay trong cuốn sách: “Có đến sáu mươi hoàng hậu, cả tám chục phi tần, còn
cung nữ thì nhiều vô kể” (6,8). Như thế, không thể nói vua là hình mẫu chung
thủy trong hôn nhân. Để phản biện điều này, Jack S. Deere giả thuyết “người
được yêu” trong cuốn sách là người vợ đầu tiên của vua, cũng vì thế mà cuốn
sách có lẽ được viết ngay sau khi vua kết hôn, trước khi sa đọa vào tội đa
thê.[103]
Chúng ta cũng có thể tìm hiểu thêm lối tiếp cận này trong chuyên khảo của tác
giả George M. Schwab (2002)[104] về thông điệp tình yêu con người trong cuốn
sách.
e. Tìm và gặp niềm vui thỏa trong tình yêu
Tác giả Meredith Kline († 2007) là người cho rằng sách Tình ca có mục đích ca
ngợi sự tìm kiếm và gặp thấy niềm vui thỏa trong tình yêu.[105] Khác với quan
điểm trên, quan điểm này nhấn mạnh đến cấu trúc tuần hoàn của cuốn sách. Theo
Kline, cấu trúc cuốn sách được sắp xếp theo một loạt các chu trình song song.
Các chu trình này được xác định bằng các điệp khúc mở và đóng, mỗi chu trình
bắt đầu bằng một ước mong và kết thúc bằng sự thỏa mãn. Tuy nhiên, dường như
mục đích của cuốn sách theo quan điểm này chỉ rõ ràng trong bài học luân lý ở
chương cuối cùng. Nhưng thật ra những điều hiền thê nói trong chương 8 cho
thấy mục đích của cuốn sách không đơn thuần chỉ là tìm kiếm và gặp thấy sự
thỏa mãn trong tình yêu.
6. Nhận định chung về lối giải thích văn tự
Nhìn chung, lối giải thích văn tự bị phớt lờ trong tất cả truyền thống Do-thái
và gần như cả Kitô giáo trong suốt dòng lịch sử. Tại sao một lối tiếp cận xem
ra hợp lý như thế lại bị phớt lờ? Mặt khác, làm sao giải thích những tham
chiếu thường xuyên đến địa dư của Israel và văn phong ngôn sứ? Và nếu Tình ca
thiếu đi những tham chiếu tôn giáo, thì tại sao cuốn sách lại được đưa vào quy
điển, thậm chí trở thành một trong năm cuộn sách (Megilloth), được đọc vào dịp
lễ Vượt qua hằng năm? Cuối cùng, chúng ta cũng có thể đưa ra thêm một nhận
xét: lối giải thích này xem ra không thể làm rõ tại sao cộng đoàn Israel,
trong khi đọc lại Sáng thế các chương đầu, lại không ý thức đến tính mong manh
của những cặp vợ chồng nhân loại và của mọi mối quan hệ tình cảm con người
trong một đất nước đang bị đô hộ bởi quyền lực chính trị – văn hoá của Ba-tư
và Hy-lạp?
Ngày nay, các nhà chú giải vẫn chọn đi theo lối giải thích văn tự, và phần lớn
các tác giả nhìn nhận nghĩa văn tự đồng nhất với nghĩa nhân học.[106] Các học
giả quan tâm đến lối giải thích này cũng đào sâu thêm đặc điểm khôn ngoan của
cuốn sách (vì Tình ca nằm trong bộ “các sách khôn ngoan” theo quy điển Công
giáo). Với các Kitô hữu, khi đọc sách này họ nhận ra rằng, tình yêu nhân loại
là một thực tại được chính Thiên Chúa dựng nên, và Người cũng chính là tình
yêu (x. 1 Ga 4,8.16). Chúng ta có thể kể đến các tác giả: Othmar Keel
(1997)[107], André LaCocque (1998)[108], Tremper Longman III (2001)[109],
George M. Schwab (2002)[110], Gianni Barbiero (2004)[111], Yair Zakovitch
(2004)[112], Yves Simoens (2004)[113]. Tất cả các tác giả này đều cho rằng,
giải thích Tình ca theo lối nhân học là hướng đi phù hợp hơn cả, nhưng cũng
không bỏ qua các lối tiếp cận khác mà chỉ coi chúng là thứ yếu. Họ phản đối
lối giải thích phúng dụ vốn xem câu chuyện tình yêu nam-nữ trong cuốn sách như
ám chỉ giao ước giữa Thiên Chúa và dân Người, có lúc an vui, có khi thất
vọng.[114] Bởi lẽ theo họ, để có thể ám chỉ giao ước giữa Thiên Chúa và dân
Người thì bản văn cần có những so sánh rõ ràng, cũng như thứ bậc trên-dưới cụ
thể. Trong khi đó, Tình ca không cho thấy điều đó, còn mối quan hệ giữa chàng
trai và cô gái xem ra ngang hàng nhau. Nói cách khác, lối giải thích phúng dụ
như một thứ chìa khóa bên ngoài bản văn, thậm chí bên ngoài các tác phẩm trong
bộ “các sách khôn ngoan”, và nó thuộc về Kinh Thánh của người Do-thái hơn là
Kitô hữu. Cho nên, một cách hiển nhiên, Tình ca cần được đọc như một bản văn
tình yêu giữa một nam và một nữ.[115]
Các nhà chú giải cũng chú ý tới ý nghĩa của bản văn gốc. Họ có thể chọn lựa
nhiều khung cảnh khác nhau để giải thích: bài thơ ca tình ái cổ đại, các văn
phẩm khôn ngoan của Sách thánh, các văn phẩm ngôn sứ, toàn bộ Cựu Ước, toàn bộ
Sách thánh (Cựu Ước và Tân Ước), kinh nghiệm riêng của cộng đoàn Do-thái và
Ki-tô giáo vốn đã nội dung hoá sách Tình ca.[116]
1/ Bài thơ ca tình ái cổ thời: chủ đề chính của cuốn sách là tình yêu. Cuốn
sách chỉ ra những nẻo đường tình yêu trong tính năng động của các mối tương
quan. Tuy nhiên, nguy cơ của lối tiếp cận này là đi theo lối phúng dụ, hay dễ
phóng chiếu vào bản thân mình.
2/ Các văn phẩm khôn ngoan của Sách thánh: khung cảnh này thay đổi thiên hướng
về ý nghĩa của nó, tức không còn theo nghĩa bản văn nhưng theo nghĩa mà sách
sẽ được đọc lên. Thật vậy, chúng ta có thể khám phá trong sách những suy tư về
các sự việc quan trọng của con người: tình yêu, sự sống, cái chết.
3/ Bối cảnh Cựu Ước: có thể nối kết cuốn sách với bi kịch trong Sáng thế các
chương 1–2. Tình yêu của người nam dành cho người nữ phản ánh tình yêu Thiên
Chúa dành cho con người.
4/ Bối cảnh toàn bộ Sách thánh: lối đọc này phù hợp với các Kitô hữu. Họ không
dừng lại ở Cựu Ước nhưng mở rộng đến cả Tân Ước và đến chính cộng đoàn đức tin
mà cuốn sách được đọc lên. Trong khung cảnh rộng lớn này, Tình ca là một bản
văn hậu lưu đày: bản văn xem xét tỉ mỉ mầu nhiệm về những điều Thiên Chúa muốn
thực hiện nơi Israel trong việc nối dài giao ước đã được các ngôn sứ loan báo,
và cách riêng là mầu nhiệm của giao ước mới được hứa trong Gr 31,31-34. Các
soạn giả Tình ca khi xuyên qua lịch sử Israel đã nhận ra chỉ có một con đường
duy nhất dẫn vào thiên đàng trần thế: con đường tuân giữ Lề luật yêu thương.
Nhân loại có thể bước đi trên con đường này, vì theo sách Giêrêmia, Thiên Chúa
đã bước vào một giao ước mới không phải được khắc trên bia đá nhưng là trong
tâm hồn mỗi người. Trong viễn tượng này, nhân vật Salômôn đầy khôn ngoan có
thể làm cho niềm hy vọng đó trở nên sống động trong cộng đoàn Do-thái.
Như vậy, Tình ca diễn tả mối tương quan tình yêu giữa Thiên Chúa và dân Người,
giữa Đức Kitô và Hội thánh, đồng thời giới thiệu trước mắt độc giả một người
nam và một người nữ đã được đổi mới: khi phá đổ rào cản xưa kia của nỗi sợ cái
chết vì xa cách Thiên Chúa trong vườn địa đàng trần thế, họ có thể ban tặng
cho nhau chính bản thân cách vô điều kiện, họ chết đi cho nhau để trở nên chỉ
một xương một thịt theo kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa. Như thế, ý nghĩa tổng
quát của sách cũng được phục hồi và hướng đến hai điểm nhấn: tình yêu con
người và tình yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên, kinh nghiệm về hai thứ tình yêu ấy ít
nhiều đặt ra giới hạn cho chúng ta trong việc tìm hiểu ý nghĩa quyển sách
tuyệt mỹ này.[117]
Kết luận
Chúng ta đã sơ lược điểm qua các lối giải thích Tình ca trong dòng lịch sử.
Lối giải thích phúng dụ tuy chiếm ưu thế hơn lối giải thích văn tự trong dòng
lịch sử, cả trong Do-thái giáo lẫn Kitô giáo, nhưng xem ra đó không phải là
chiếc chìa khóa đích thực để giải mã cuốn sách. Dường như nó muốn áp đặt ý
nghĩa bên ngoài vào bản văn thay vì cho phép bản văn tự bộc lộ ý nghĩa tự
nhiên của mình. Còn lối giải thích văn tự xem ra hợp lý những đã bị quên lãng
trong một khoảng thời gian rất dài. Dù sao, bức tranh đa diện của các lối tiếp
cận đã tạo nên một tổng thể đẹp, cho thấy sự đa dạng của khoa chú giải. Thật
vậy, mầu nhiệm ẩn đằng sau bản văn Tình ca đã, đang và sẽ không ngừng kích
thích sự tìm tòi khám phá của những ai muốn giải mã quyển sách thánh đặc biệt
này. Mầu nhiệm ấy một mặt là thách đố không nhỏ cho các nhà chú giải Kinh
Thánh, nhưng mặt khác cũng là động lực cho sự đa dạng của các lối tiếp cận
cũng như sự ra đời của những lối giải thích mới.
Ngày nay đa số các học giả tiếp cận cuốn sách như một bản tình thơ (hay tình
ca) mà không hề bỏ qua việc đọc lại bản văn dưới khía cạnh thần học. Số ít học
giả hơn vẫn ủng hộ lối giải thích phúng dụ nhưng đã có nhiều biến thể khác
nhau. Hiện tượng này có thể hiểu được: sách Tình ca là gì nếu không phải là sự
giao thoa của những lời văn sống động mang lại tiếng nói cho tình yêu, nếu
không phải là một lối viết ẩn dụ (metaphora) trong đó ý nghĩa tự nhiên luôn
được gợi lại như để ngăn cấm một lối giải thích đơn nghĩa, và nếu không phải
là hàng loạt các ẩn ngữ đang chờ được giải mã. Tuy nhiên, cũng như bao tác
phẩm khác trong bộ các sách khôn ngoan, Tình ca đòi hỏi độc giả phải loại bỏ
sự hiểu biết cố hữu để bước vào một cuộc tìm kiếm mới không ngừng nghỉ. Ta có
thể nhắc tới giáo sư Paul Ricoeur (1913-2005), một học giả người Pháp, đã đề
nghị phương pháp “liên bản văn” (intertextualité) khi so chiếu Tình ca với
Sáng thế các chương đầu. Một cách nào đó, ông đã thoát khỏi lối đọc chỉ thuần
về phúng dụ hoặc văn tự, ngõ hầu có thể nhìn về thực tại tình yêu dưới các ẩn
dụ: tình yêu trong Tình ca không chỉ dành cho đời sống hôn nhân mà còn hướng
tới tất cả những ai biết yêu và muốn sống trọn vẹn tình yêu của mình. Michel
Berder (sinh 1948)[118] cũng là một trong những học giả lớn vẫn đang tái khám
phá lối giải thích theo nghĩa văn tự, một vấn đề đã được đổi mới nhờ các
nghiên cứu thông diễn ngữ pháp – lịch sử – bối cảnh. Thật vậy, song song với
các nghiên cứu lịch đại, sự phát triển của các lối chú giải đồng đại càng làm
cho lối giải thích cuốn sách theo nghĩa văn tự thêm phức tạp. Nhiều cách giải
thích hiện đại xem ra cởi mở hơn, đặc biệt khi ngày nay người ta nghi vấn về ý
định của tác giả thật sự.
Thư mục tham khảo
Alexander, P.S.. The Targum of Canticles: Translated with a Critical
Introduction, Apparatus, and Notes. Aramaic Bible 17A. Collegeville, MN:
Liturgical Press, 2003.
Auwers J.M. và Wénin, A.. “Problèmes herméneutiques dans l’interprétation du
Cantique des cantiques.” Revue théologique de Louvain 36 (2005): 344-373.
Brown, R.E., Fitzmyer, J.A., Murphy, R.E., bt.. The New Jerome Biblical
Commentary. Englewood Cliffs, NJ: Prentice-Hall, 1990.
Bullock, C.H.. An Introduction to the Old Testament Poetic Books. Chicago:
Moody, 1988.
Carr, G.L.. The Song of Solomon. Tyndale Old Testament Commentaries. Downers
Grove, IL: InterVarsity, 1984.
Curley, F.X.. “The Lady of the Canticle.” American Ecclesiastical Review 133
(1955): 289-299.
Deere, J.S.. “Song of Songs.” The Bible Knowledge Commentary, Old Testament.
Bt. John F. Walvoord và Roy B. Zuck. Wheaton, IL: Victor, 1985.
Delitzsch, F.. Commentary on the Song of Songs and Ecclesiastes. Trong
Delitzsch, F. và Keil, C.F.. Commentary on the Old Testament. 10 tập. Dg. M.E.
Easton. Grand Rapids: Eerdmans, 1973.
Dunsky, S., bt.. Song of Songs Rabbah. Devir: Tel Aviv, 1980.
Freehof, S.B.. “The Song of Songs. A General Suggestion.” Jewish Quarterly
Review 39 (1948-1949): 397-402.
Glickman, S.C.. A Song for Lovers. Downers Grove, IL: InterVarsity, 1976.
Ginsburg, C.D.. The Song of Songs and Coheleth. New York: KTAV, 1970.
Gregory of Nyssa. Commentary on the Song of Songs. Dg. Casimir McCambley OCSO.
Brookline, Massachusetts: Hellenic College Press, 1987.
Harrison, R.K.. Introduction to the Old Testament. Grand Rapids: Eerdmans,
1969.
Keel, O.. The Song of Songs. dg. F.J. Gaiser. Minneapolis: Fortress Press,
1994.
Kinlaw, D.F.. “Song of Songs.” The Expositor’s Bible Commentary. 12 tập. Bt.
F.E. Gaebelein. Grand Rapids: Zondervan, 1991.
LaCocque, A.. Romance, She Wrote: A Hermeneutical Essay on Song of Songs.
Harrisburg: Trinity Press International, 1998.
Loewe, R.. “Apologetic Motifs in the Targum to the Song of Songs.” Biblical
Motifs. Bt. A. Altmann. Cambridge: Harvard University Press, 1966.
Lorenzin, T.. “Tìm kiếm Thiên Chúa: Dẫn vào Thánh Vịnh và các sách giáo huấn.”
Dg. Nguyễn Đình Chiến. Giáo trình, Trung tâm Học vấn Đa Minh, 2020. Bản gốc
Esperti in umanità. Introduzione ai libri sapienziali e poetici. Graphé 4.
Torino: Editrice ElleDiCi, 2013.
Midrash Rabbah. Song of Songs. Dg. H. Freedman và M. Simon. London: The
Soncino Press, 1961.
Murphy, R.. Songs of Songs. Minneapolis: Fortress Press, 1990.
Pope, M.H.. Song of Songs. Anchor Bible 7C. Garden City, New York: Doubleday
and Co., 1977.
Rowley, H.H.. “The Interpretation of the Song of Songs.” The Servant of the
Lord and Other Essays on the Old Testament. London: Lutterworth Press, 1952.
Simonetti, M.. Biblical Interpretation in the Early Church: An Historical
Introduction to Patristic Exegesis. Dg. John A. Hughes. Edinburgh: T&T
Clark LTD, 1994.
Sonnet, J.P.. “Le Cantique des Cantiques: la fabrique poétique.” Les nouvelles
voies de l’exégèse: En lisant le Cantique des cantiques. Bt. J. Nieuviarts và
P. Debergé. Paris: Cerf, 2002.
Tanner, J.P.. “The History of Interpretation of the Song of Songs.”
Bibliotheca Sacra 154 (1-3/1997): 23-46.
Tran Thi Ly. “The Language of Love in the Song of Songs: Reading With/Into A
Vietnamese Church Context.” Luận án Tiến sĩ Thần học, Melbourne College of
Divinity, Australia, 2010.
Unger, M.F.. Unger’s Commentary on the Old Testament. 2 tập. Chicago: Moody,
1981.
Young, E.J.. Introduction to the Old Testament. Grand Rapids: Eerdmans, 1964.