LTS: Bài này được dự kiến đăng trong Thời sự Thần học số 92, nhưng số lượng trang không cho phép. Nhân ngày Lễ mừng Thánh Giuse, chúng tôi đăng bài này để quý độc giả có thêm tư liệu học hỏi và suy gẫm về vị thánh Cả, mẫu gương vâng phục và mau mắn cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa.
_Phan Tấn Thành_
I. Lịch sử
Nói cho đúng, những bản văn đầu tiên của kinh cầu thánh Giuse đã được lưu hành từ hơn 400 năm nay rồi. Bản kinh cầu Thánh Giuse lâu đời nhất là của cha Jerónimo Gracián Dòng Cát-minh, xuất bản ở Rôma năm 1597 bằng tiếng Italia và Tây Ban Nha. Có lẽ cha đã lấy từ một quyển sách nhỏ về bảy sự buồn cùng bảy sự vui của Thánh Giuse do Hiệp hội các thợ mộc in ở Perugia, và đã thêm vào nhiều lời cầu: ấn bản tiếng Tây Ban Nha có 49 lời cầu, trong khi bản tiếng Italia chỉ có 21 lời. Tiếc rằng vào thời gian ấy, nhiều kinh cầu của các thánh khác đã xuất hiện. Một vài bản kinh chứa đựng những lời cầu sai lầm về thần học; vì thế, năm 1601 dưới thời Đức Giáo Hoàng Clêmentê VIII, Tòa Thánh đã ra sắc lệnh buộc tất cả các kinh cầu, (ngoại trừ những kinh cầu đã được chấp thuận, tức là kinh cầu Các Thánh và kinh cầu Đức Bà Loreto) phải đệ trình để được duyệt y trước khi cho sử dụng công khai. Hàng giáo phẩm tại Italia và Tây Ban Nha giải thích và áp dụng Sắc lệnh này cách chặt chẽ, nên không sử dụng kinh cầu Thánh Giuse tại hai nước này, nhưng ở các quốc gia khác bên Âu châu, hàng giáo phẩm giải thích rằng, Sắc lệnh chỉ áp dụng cho các kinh cầu được đọc nơi công cộng chứ không áp dụng cho việc sử dụng riêng tư. Không lạ gì mà có hơn ba mươi phiên bản kinh cầu khác nhau được lưu hành đây đó, trong số này đáng kể hơn cả của chị María de San José Dòng Cát-minh (1548-1603), người bạn thân của Thánh Têrêsa Avila và cha Gracián. Trong những kinh cầu đa dạng, một vài lời cầu ca ngợi Thánh Giuse, nhìn nhận vai trò của Người trong thời thơ ấu của Chúa Kitô, sự hợp nhất của Người với Đức Maria và những đặc ân của Người như là người đứng đầu của Thánh Gia. Một vài kinh tóm tắt đời sống và sự ưu việt của Người, trong khi những kinh khác liệt kê những ân huệ chính với ước vọng sẽ đạt được nhờ lời chuyển cầu của Người. Một vài kinh khác chứa đựng những ý kiến đạo đức cá nhân chưa được Hội Thánh tuyên bố, ví dụ như sự thánh hóa của Người trong lòng mẹ và thân xác Người được đưa về trời, nhưng những điều này không bị Hội Thánh phản đối bởi vì nó phản ánh những ý tưởng thần học của thời đại.
Vào đầu thế kỷ XX, nhiều Giám mục tại châu Âu và châu Mỹ xin Tòa Thánh phê chuẩn kinh cầu để được đọc công khai. Sau nhiêu lần thỉnh nguyện bị từ chối, cuối cùng cha Sébastien Wyart (+ 1904), Tổng viện phụ Dòng Trappe, đã soạn một kinh cầu để xin phê chuẩn. Tuy nhiên theo nhiều học giả, công thức của kinh cầu được Đức Giáo Hoàng Piô X châu phê ngày 18/3/1909 (đăng trên Acta Apostolicae Sedis 1 [1909] 290-292), và được lưu hành hiện nay là do Đức Hồng y Alexis Lépicier soạn ra. Ngài là một tu sĩ thuộc dòng Tôi Tớ Đức Mẹ, giáo sư đại học Urbaniana và Tổng trưởng bộ tu sĩ, đã viết một cuốn sách thần học về thánh Giuse (Tractatus de sancto Josepho, 1908).
II. Nội dung
Kinh cầu thánh Giuse dựa theo bố cục của Kinh cầu Đức Mẹ. Sau phần dẫn nhập (kêu cầu Thiên Chúa Ba Ngôi, và Đức Mẹ) là các lời khẩn nài: bản văn của ĐTC Piô X gồm 25 lời khẩn nài, và mới đây, ĐTC Phanxicô thêm 7 lời khẩn nài nữa, tổng cộng là 32 câu.
Lời khẩn nài đầu tiên “Thánh Giuse” nói lên sự thánh thiện của Người, và khỏi cần chú giải. Các lời khẩn nài còn lại có thể phân ra thành bốn nhóm: nhóm thứ nhất nói đến nguồn gốc trong lịch sử cứu độ; nhóm thứ hai nói đến các chức vụ được ủy thách đối với Mẹ Maria và với Chúa Giêsu; nhóm thứ ba nêu bật các nhân đức của Người; nhóm cuối cùng kêu cầu Người như là kẻ bảo trợ. Nên biết là có hai bản dịch tiếng Việt với giọng văn hơi cổ điển và không sát với bản văn cho lắm; hơn nữa còn thêm “Thánh Giuse là” ở đầu mỗi lời xin, còn trong nguyên bản Latinh thì kêu cầu thẳng tước hiệu. Chúng tôi chú giải theo nguyên bản Latinh.
A. Nhóm thứ nhất: nguồn gốc trong lịch sử cứu độ
Hai tước hiệu đầu tiên là “miêu duệ vinh hiển của dòng dõi Đavit” và “ánh sáng của các tổ phụ”.
Tước hiệu “Miêu duệ của dòng dõi Đavit” (Proles David inclyta) gợi lại lời của thiên sứ hiện ra với thánh Giuse được thuật lại trong Tin mừng thánh Matthêu: “Này Giuse, con vua Đavit, đừng ngại nhận bà Maria làm vợ” (Mt 1,20; Lc 1,27). Chính nhờ thánh Giuse mà lời hứa của Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Nathan được ứng nghiệm, như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất của Thánh lễ ngày 19 tháng 3 (2Sm 7,12). Nhờ thánh Giuse mà Chúa Giêsu được nhìn nhận là “Con vua Đavit”, như đã đọc thấy nhiều lần trong Tân ước (chẳng hạn như Mc 10,47; Rm 1,4).
Tước hiệu “Ánh sáng của các tổ phụ” (Lumen Patriarcharum) có lẽ không chỉ gợi lại hình ảnh của ông Giuse trong Cựu ước cho bằng ông Abraham, tổ phụ của một gia tộc mới, gia tộc dựa trên đức tin và hy vọng, chứ không trên huyết tộc (được thánh Phaolô nhắc tới trong bài đọc thứ hai của Thánh Lễ: Rm 4,16).
B. Nhóm thứ hai: các chức vụ trong kế hoạch cứu độ
Các lời cầu trong nhóm này nói đến các chức vụ mà thánh Giuse được ủy thác trong kế hoạch cứu độ, trong tương quan với Đức Maria và với Chúa Giêsu, dựa trên các bản văn của Tin mừng thơ ấu.
Trước hết, Người là “Chồng của Thánh mẫu” (Dei Genitricis sponse), dựa theo lời thiên sứ mà chúng ta vừa nhắc đến trên đây (Mt 1,20). Vì là chồng của Đức Maria mà Chúa Giêsu trở thành con vua Đavit; hơn thế nữa, thánh Giuse còn bảo vệ cho Đức Mẹ khỏi phải ném đá vì tội ngoại tình (bởi vì không có chồng mà lại có con). Đó là ý nghĩa của tước hiệu “Kẻ giữ gìn rất thanh khiết của Đức Trinh nữ” (Custos pudice Virginis).
Kế đó là các tước hiệu liên quan đến Chúa Giêsu, mở đầu với tước hiệu mới được. ĐTC Phanxicô thêm vào, đó là « Kẻ giữ gìn Đấng Cứu chuộc » (Custos Redemptoris), tựa đề của tông huấn của thánh Gioan Phaolo II ngày 15 tháng 8 năm 1989. Thực ra tước hiệu không chỉ giới hạn vào bản thân của Chúa Giêsu mà còn kéo dài sang Thân thể mầu nhiệm của Người là Hội thánh nữa.
Các lời khấn cầu tiếp tục ca ngợi mối tương quan với Chúa Cứu thế:
- “Nghĩa phụ của Con Thiên Chúa” (Filii Dei nutritie). Tước hiệu này ra như muốn chơi chữ một chút, bởi vì tuy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (tức là Thiên Chúa là Cha của ngài, như câu trả lời cho Đức Mẹ khi gặp lại sau 3 ngày thất lạc: Lc 2,49), nhưng ở dưới trần thế, Đức Giêsu cũng có một người cha khác (quen dịch là: cha nuôi, dưỡng phụ, nghĩa phụ, hoặc linh phụ). Có tác giả cho rằng thánh Giuse giữ vai trò “dấu chỉ” hoặc “bí tích” của Chúa Cha đối với Đức Giêsu. Đây là đề tài được khai triển trong tông thư Patris corde của ĐTC Phanxicô.
- “Kẻ bảo vệ ân cần của Chúa Kitô” (Christi defénsor sédule). Tước hiệu này muốn nói đến vai trò của thánh Giuse trong giai đoạn thơ ấu của Chúa Hài đồng, đặc biệt là trong thời kỳ phải lánh nạn sang Ai cập rồi sau đó đưa về định cư ở Nazaret.
ĐTC Phanxicô thêm hai tước hiệu nữa: “Kẻ phục vụ Chúa Kitô” (Serve Christi), trích từ một bài giảng của thánh Phaolo VI dịp lễ thánh Giuse năm 1966, và được trưng dẫn trong tông huấn Redemptoris custos số 8 và tông thư Patris corde số 1), và “Tác viên ơn cứu độ” (câu nói của thánh Gioan Kim khẩu cũng được trích dãn trong tông huân Redemptoris custos số 8). Giữa hai tước hiệu này có sự khác biệt về điểm nhấn. Tước hiệu trên nhấn mạnh đến thái độ khiêm tốn (danh từ servus có nghĩa tôi tớ; từ đó, động từ servire có nghĩa là hầu hạn), kèm theo sự hy sinh. Tước hiệu dưới mở rộng đến việc hợp tác với công trình cứu độ của Chúa Kitô, bắt đầu với việc đón nhận Thân mẫu của Người làm vợ, và đón nhận chính Người từ lúc giáng trân.
Từ đó chúng ta dễ hiểu ý nghĩa của tước hiệu cuối cùng thuộc nhóm này, đó là “Cai quản thánh gia” (Almæ Familiæ præses) nói lên vai trò của thánh nhân trong giai đoạn ẩn dật của Chúa Cứu thế.
C. Nhóm thứ ba: các nhân đức
Đố ai biết được có bao nhiêu nhân đức Kitô giáo? Chúng ta thường nghe nói đến ba nhân đức đối thần (tin – cậy- mến) và bốn nhân đức nhân bản hoặc nhân đức trụ (khôn ngoan – công bằng – can đảm – tiết độ) (x. Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo số 1812-1813). Nhưng với sự giúp đỡ của các triết gia Aristote và Ciceron, thánh Tôma Aquinô đã khai triển thành 54 nhân đức[1]. Liệu thánh Giuse có đủ hết các nhân đức đó hay không? Có lẽ có đủ đấy, nhưng nếu kể ra thì chắc là kinh cầu sẽ rất dài. Không lạ gì mà soạn giả kinh cầu chỉ giới hạn vào 8 nhân đức, nhưng đặt ở cấp cao nhất (superlative). Tám nhân đức là: công chính, khiết tịnh, khôn ngoan, mạnh bạo, vâng phục, trung tín, nhẫn nại, yêu mến thanh bần. Chúng ta nên ghi nhận là kinh cầu chỉ giới hạn vào các nhân đức nhân bản, bởi vì ba nhân đức “hướng Chúa” đã được hiểu ngậm trong các tước hiệu trên đây rồi, chẳng hạn như đức tin và đức hy vọng theo gương của các tổ phụ, nhất là Abraham, đức mến khi nói đến tương quan với Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Và nếu Tân ước đã ca ngợi Đức Maria có phúc vì đã tin vào Lời Chúa, thì chắc chắn lời khen này cũng có thể áp dụng cho thánh Giuse, kể từ khi nhận được lời mời của thiên sứ cộng tác vào công trình cứu độ của Đức Kitô. Hẳn là những năm tháng sống bên cạnh Chúa Giêsu ở Belem, Ai cập và Nazareth cũng là thời gian lắng nghe, nghiền ngẫm lời Chúa, và tăng trưởng trong đức tin. Câu chuyện này đưa chúng ta trở về với chuỗi các nhân đức nhân bản vừa kể.
Đứng đầu là đức “công chính” (Ioseph iustissime). Bản dịch tiếng Việt “gồm no mọi nhân đức” là không sát với nguyên bản). Nhân đức này được đặt vào hàng đầu bởi vì được đề cao trong Tin mừng thánh Matthêu 1,19. Thực không dễ gì dịch sang tiếng Việt, bởi vì tính từ “Justus” thường được hiểu là “công bình”, áp dụng cho mối tương quan với tha nhân; tuy nhiên, Kinh thánh còn áp dụng tính từ này cho tương quan với Thiên Chúa nữa, và vì thế phải dịch là “công chính” thì mới đúng. Sự đói khát công chính trở nên một trong 8 mối phúc (Mt 5,6). Thánh Phaolô tóm lại tất cả kế hoạch cứu độ của Chúa Giêsu là làm cho nhân loại được nên công chính (thường được gọi là “công chính hóa”), nghĩa là được ơn nghĩa trước mặt Chúa.
Tiếp theo là đức “khiết tịnh” (Ioseph castissime), được hiểu đặc biệt trong tương quan với Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Thực vậy, nếu Đức Maria được gọi là “người mẹ trinh khiết”, thì ta cũng có thể gọi thánh Giuse là “người cha khiết tịnh” của Chúa Cứu thế. Điều này được Tin mừng thánh Matthêu nêu bật ở chương một, khi thuật lại cuộc hạ sinh của Chúa Giêsu.
Sau hai nhân đức được minh thị nhắc đến trong Tin mừng, kinh cầu nhắc đến các nhân đức mà chúng ta nhận thấy nơi cuộc đời của Người: đức khôn ngoan (Ioseph prudentissime), đứng đầu bốn nhân đức trụ, nhưng ta có thể hiểu về lời khen dành cho người tôi tớ “trung tín và khôn ngoan” được trao nhiệm vụ quản trị nhà Chúa. “Can đảm” (Ioseph fortissime) hoặc “mạnh mẽ, mạnh bạo”, vừa là một nhân đức trụ, vừa là một trong bảy ơn huệ Thánh Linh giúp vượt qua những trở ngại trong việc thi hành ý Chúa; vì thế không lạ gì mà liền đó, nó được gắn với đức vâng phục (Ioseph obedientissime), luôn sẵn sàng làm theo lời Chúa dạy. Trong tư thế đó, Người tỏ ra là kẻ “trung tín” (Ioseph fidelissime, tiếng Việt dịch là “ngay chính thật thà”), trung thành với nhiệm vụ đã trao phó. Hai nhân đức kế tiếp “nhẫn nại” (Spéculum patiéntiæ) và “khó nghèo” (Amator paupertatis) cần được hiểu theo nghĩa Kinh thánh như là đặc tính của kẻ tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đấng an bài mọi sự.
Đành rằng những nhân đức vừa nêu thích hợp cho tất cả mọi Kitô hữu, nhưng hai câu khẩn nài kế tiếp giới thiệu thánh Giuse như là mẫu gương cho hai hàng ngũ: thứ nhất là giới lao động (Exémplar opificum, mà bản dịch tiếng Việt gọi là “thợ thuyền”), đặc biệt khi ĐTC Piô XII đã thiết lập lễ thánh Giuse lao công vào ngày lễ lao động quốc tế (1 tháng 5); thứ hai là các gia đình, (Domésticæ vitæ decus), bởi vì trên đây, chúng ta đã nêu bật tấm gương của Người tại thánh gia Nazareth. Và như thế là kinh cầu đã chuyển sang nhóm thứ bốn, tuyên dương thánh Giuse làm đấng bảo trợ của những đoàn ngũ khác nhau trong Hội thánh, dường như là kết luận của những điều đã suy gẫm từ đầu đến nay.
D. Nhóm thứ bốn: Thánh Giuse đấng bảo trợ
Mở đầu cho nhóm này, thánh Giuse lần lượt được gọi là Đấng bảo trợ (hoặc quan thầy, che chở) cho những người sống trinh khiết (Custos vírginum) cũng như những người lập gia đình (Familiárum cólumen)
Đến đây ĐTC Phanxicô xem thêm lời khẩn nài “Chỗ nương tựa khi gặp khó khăn” (Fúlcimen in difficultátibus, trích từ dẫn nhập tông thư Patris corde), trước các lời cầu “Niềm an ủi cho những người lầm thân cơ cực” (Solátium miserórum) “Mối hy vọng của những người bệnh tật ốm đau” (Spes ægrotântium), bởi vì Người đã trải nghiệm những cảnh ấy.
ĐTC Phanxicô còn thêm ba tước hiệu mới (trích từ tông thư Patris corde số 5), đó là “Bổn mạng những người di cư, những người cơ cực, những người nghèo”. Tuy là ba hoàn cảnh khác nhau, nhưng trong đoạn văn trên đây, DTC muốn gắn liền với thảm cảnh của các di dân vào thời đại chúng ta. Thánh Giuse được kêu cầu như người bổn mạng họ, bởi vì Người đã trải qua thời lưu lạc bên Ai cập vì thế Người thấu hiểu tình cảnh của những người phải lìa xa quê hương vì lý do chiến tranh, thù hận, bách hại, khổn cùng. Ba tước hiệu đước ghép trước tước hiệu đã có trước “Bổn mang của những người lâm tử” (Patróne moriéntium), bởi vì Người đã được Chúa Giêsu và Đức Mẹ đứng kề bên cạnh vào lúc ly trần.
Lời khẩn cầu áp chót “Kẻ làm cho ma quỷ kinh hoàng” (Terror dæmônum) dĩ nhiên là không nói đến vai trò bảo trợ đối với ác thần, nhưng là cho chúng ta được an tâm, bởi vì thánh Giuse cũng được chia sẻ sự chiến thắng của Chúa Kitô phục sinh, Đấng đã hứa sẽ giữ gìn Hội thánh khỏi mọi tấn công của ma quỷ (Mt 16,18). Điều này đưa chúng ta đến lời khẩn nài cuối cùng, với tước hiệu “Vị bảo trợ của Hội thánh” (Protéctor sanctæ Ecclésiæ), được ĐTC Piô IX tuyên bố vào ngày 8 tháng 12 năm 1870. Như chúng ta đã biết, Đức Thánh Cha Phanxico muốn mở “Năm thánh Giuse” để kỷ niệm 150 năm biến cố ấy.
Kinh cầu thánh Giuse tiếng Latinh
LITANIAE IN HONOREM S. IOSEPH SPONSI B. MARIæ V.
Kyrie, eléison.
Christe, eléison.
Kyrie, eléison.
Christe, audi nos.
Christe, exáudi nos.
Pater de cælis, Deus, miserére nobis.
Fili, Redémptor mundi, Deus, miserére nobis.
Spíritus sancte, Deus, miserére nobis.
Sancta Trínitas, unus Deus, miserére nobis.
Sancta María, ora pro nobis.
Sancte Ioseph, ora pro nobis.
Proles David ínclyta, ora pro nobis.
Lumen Patriarchárum, ora pro nobis.
Dei Genitrícis sponse, ora pro nobis.
Custos Redemptóris, ora pro nobis.
Custos pudíce Vírginis, ora pro nobis.
Fílii Dei nutrítie, ora pro nobis.
Christi defénsor sédule, ora pro nobis.
Serve Christi, ora pro nobis.
Miníster salútis, ora pro nobis.
Almæ Famíliæ præses, ora pro nobis.
Ioseph iustíssime, ora pro nobis.
Ioseph castíssime, ora pro nobis.
Ioseph prudentíssime, ora pro nobis.
Ioseph fortíssime, ora pro nobis.
Ioseph obedientíssime, ora pro nobis.
Ioseph fidelíssime, ora pro nobis.
Spéculum patiéntiæ, ora pro nobis.
Amátor paupertátis, ora pro nobis.
Exémplar opíficum, ora pro nobis.
Domésticæ vitæ decus, ora pro nobis.
Custos vírginum, ora pro nobis.
Familiárum cólumen, ora pro nobis.
Fúlcimen in difficultátibus, ora pro nobis.
Solátium miserórum, ora pro nobis.
Spes ægrotántium, ora pro nobis.
Patróne éxsulum ora pro nobis.
Patróne afflictórum, ora pro nobis.
Patróne páuperum, ora pro nobis.
Patróne moriéntium, ora pro nobis.
Terror dæmónum, ora pro nobis.
Protéctor sanctæ Ecclésiæ, ora pro nobis.
Agnus Dei, qui tollis peccáta mundi, parce nobis, Dómine.
Agnus Dei, qui tollis peccáta mundi, exáudi nos, Dómine.
Agnus Dei, qui tollis peccáta mundi, miserére nobis.
℣. Constítuit eum dóminum domus suæ.
℞. Et príncipem omnis possessiónis suæ.
℞. Et príncipem omnis possessiónis suæ.
Orémus.
Deus, qui ineffábili providéntia beátum Ioseph, sanctíssimæ Genitrícis tuæ sponsum elígere dignátus es, prǽsta, quǽsumus, ut, quem protectórem venerámur in terris, intercessórem habére mereámur in cælis. Qui vivis et regnas in sǽcula sæculórum. ℞. Amen.
Trong tiếng Việt có hai bản dịch Kinh cầu thánh Giuse, phần nào gắn liền với truyền thống của hai địa phận Dàng Trong và Đàng Ngoài
[1] X. Phan Tấn Thành, Các nhân đức Kitô giáo (Đời sống tâm linh, tập XII), TPHCM 2014.
Deus, qui ineffábili providéntia beátum Ioseph, sanctíssimæ Genitrícis tuæ sponsum elígere dignátus es, prǽsta, quǽsumus, ut, quem protectórem venerámur in terris, intercessórem habére mereámur in cælis. Qui vivis et regnas in sǽcula sæculórum. ℞. Amen.
Trong tiếng Việt có hai bản dịch Kinh cầu thánh Giuse, phần nào gắn liền với truyền thống của hai địa phận Dàng Trong và Đàng Ngoài
[1] X. Phan Tấn Thành, Các nhân đức Kitô giáo (Đời sống tâm linh, tập XII), TPHCM 2014.