KÍNH DÂNG “THÁNH SƯ THOMAS AQUINAS - MỘT GƯƠNG MẪU CỦA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU KITÔ
GIÁO”[1], NHÂN NGÀY MỪNG KÍNH NGƯỜI 28-1
Thời sự Thần học - Số 34, tháng 12/2003, tr. 118-137.
_Tsth biên tập 🙍
Phần I : LỜI CHA CHUNG...
Trong diễn văn kết thúc hội nghị quốc tế (1979) về bách chu niên thông điệp “ Aeterni Patris” của Đức Giáo hoàng Lêo XIII, ĐGH Gioan Phaolô II đã phát biểu :
1. Thánh Thomas đã hướng dẫn các suy tư của lý trí trên các dữ kiện của đức tin. Với việc phân biệt lý trí và đức tin, Người liên kết cả hai bằng những mối dây tương ái, như thế vẫn giữ được quyền lợi của mỗi bên, bảo toàn phẩm tính của mỗi bên đến nỗi lý trí được thánh Thomas chắp cho đôi cánh đưa lên tận chớp đỉnh của trí khôn con người, không còn có thể vươn cao hơn được nữa, và đức tin không cần trông đợi nơi lý trí những trợ lực phong phú hoặc mạnh mẽ khác nữa.
2. Phẩm tính đầu tiên của thánh Thomas chắc chắn là lòng trọng kính toàn vẹn xác hồn đối với mạc khải của Thiên Chúa... Thật hữu ích biết bao cho giáo hội của Chúa khi ngày nay các triết gia và các thần học gia Công giáo còn noi theo mẫu gương cao cả mà vị tiến sĩ giáo hội này (ĐGH Gioan Phaolô II)
3. Phẩm tính thứ hai của thánh Thomas chính là sự tôn trọng sâu xa đối với thế giới hữu hình xét như một công trình, dấu ấn và hình ảnh của Thiên Chúa.
4. Phẩm tính thứ ba của thánh Thomas là trung thành cách bền bỉ, chân thành và trọn vẹn với quyền giáo huấn của Giáo hội, suốt cả đời, và cả ngay trong giờ lâm tử Người đã đặt mọi tác phẩm của mình dưới phán quyết của quyền giáo huấn đó.
5. Triết học thánh Thomas đáng được giới trẻ của thời đại chúng ta chuyên cần nghiên cứu và đón nhận với niềm xác tín nơi tinh thần cởi mở và phổ cập của nó - điều này khó tìm thấy trong nhiều trào lưu tư tưởng hiên đại. Cởi mở với toàn thể thực tại trong mọi thành phần và chiều kích, không giản lược thực tại cũng không giam nhốt tư tưởng vào trong các hình thức và khía cạnh đặc thù nào... Nền tảng và cội nguồn của sự cởi mở này hệ tại ở sự kiện: triết học thánh Thomas là triết học vể hữu thể, nghĩa là triết học về tác động hiện hữu với giá trị siêu việt là chuẩn bị hướng thẳng tới sự hiểu biết hữu thể tự tại và hiện thể thuần túy tức là Thiên Chúa. Vì lẽ đó chúng ta có thể gọi triết học này là triết học tuyên ngôn về hữu thể, một bài ca tán dương hữu thể.
6. Bằng một niềm tin được lý trí soi sáng, Thần học của Thánh Thomas cũng đã biết chiếu rọi ánh sáng cả trên những vấn đề liên quan đến Ngôi lời nhập thể, Đấng cứu chuộc mọi người. Đây là một chủ đề có tầm quan trọng bậc nhất đối với đời sống giáo hội và dẫn đến một khoa nhân loại học hoàn hảo hơn, đáp ứng nhu cầu của thời đại chúng ta .
7. Trong tuyên ngôn về giáo dục Kitô giáo Gravisium Educationis, chúng ta đọc thấy như sau: “người ta sẽ hiểu sâu xa hơn mối liên hệ giữa đức tin và lý trí để đạt tới chân lý duy nhất. Đó là con đường mà các thánh tiến sĩ của giáo hội và đặc biệt là thánh Thomas đã đi theo”. (s.10)
8. Các môn sinh của thánh Thomas phải can đảm bước theo dấu chân cuả Người và noi theo gương Người, nếu họ muốn thưởng thức được những hoa trái khuất kín nhất và ngọt ngào nhất của Học thuyết thánh Thomas.
9. Trong ngày lể kính thánh Thomas, Phụng vụ đã cầu nguyện: “Lạy Chúa là đấng đã làm cho thánh Thomas nên như mẫu gương tuyệt diệu bằng một cuộc đời tìm kiếm cuộc sống thánh thiện và bằng một tình yêu tuyệt đối với khoa thánh, xin cho con hiểu biết giáo huấn người và noi theo gương người.”
10. Bài diễn văn kết thúc : “Tôn sư Thomas, một bậc Thầy rất nhân bản vì rất Kitô giáo và rất Kitô giáo vì rất nhân bản”.
Đức Giáo hoàng Pio XI, khi công bố thông điệp Studiorum Ducem nhân dịp kỷ niệm đệ lục bách chu niên việc phong thánh cho thánh Thomas đã không ngần ngại tuyên bố: “Trong việc tôn vinh thánh Thomas còn bao hàm một điều gì lớn lao hơn vinh dự của Người, đó là quyền giáo huấn của giáo hội” (AAS,15,1923,p.324).
Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã đề nghị với các giáo sư và các sinh viên triết lý, thần học một mẫu mực của nhà nghiên cứu Kitô giáo không ai sánh bằng: Thánh Thomas Tiến sĩ, đồng thời đặt Người là “bổn mạng các bộ môn cao học” (Tông thư “Cum Sit Hoc”, 4.8.1880). Hơn nữa, “các tác phẩm của thánh Tiến sĩ Thiên thần hàm chứa giáo thuyết phù hợp nhất với huấn quyền của giáo hội”. Chính Người đã kết thúc thông điệp Aeterni Patris bằng lời kêu gọi : “Hãy noi theo gương của vị Tiến sĩ Thiên thần”.
- Thánh Giáo hoàng Pio V đã tặng tước hiệu “Tiến sĩ thiên thần” và “Tiến sĩ Giáo hội” cho thánh Thomas.
Phần II : THÁNH THOMAS, MỘT BẬC THẦY RẤT NHÂN BẢN VÌ RẤT KITÔ GIÁO VÀ RẤT KITÔ GIÁO VÌ RẤT NHÂN BẢN
_Tu sĩ Marie Joseph Nicolas_
Thánh Thomas có tầm vóc cao lớn, khỏe mạnh, khá mập mạp, có thể hơi nặng nề; trán rộng và sói, nước da rất mịn màng, mềm mại, và nâu sẫm, điều này không do gốc gác Normand hay gốc Đức của Người, nhưng do mẹ Người là dân Naples. Thánh nhân có dáng đi khoan thai, chậm rãi và đầy suy tư. Như người ta kể lại: chỉ nghuyên vóc dáng bên ngoài của Người dường như đã cho thấy một cảm tưởng lạ lùng về đức ái dịu dàng của Người, nhìn Người, ta thấy một sự an ủi và niềm vui tinh thần. Chúng ta biết Người rất ngoan cường. Người có tính cương quyết cũng như trầm tĩnh. Người ta cho thấy điều đó khi nghe kể lại lúc Người là một tiền tập sinh, Người đã quyết liệt chống trả lại những chàng hiệp sĩ vũ phu là các anh mình: họ không tài nào dùng sức mạnh để lột được bộ áo ngoài đang mặc, và phải để lại bộ áo rách bươm trên mình Người. Người vốn ít nói vì mải suy tư. Khi còn là một sinh viên, người ta gọi Người là chú bò câm thành Sicile, vì thế mà có lời thánh Alberto tiên tri rằng những tiếng rống của chú bò sẽ vang dội cả thế giới. Sau này, Người tránh xa những cuộc đàm luận vô ích và khi bắt đầu nói chuyện phiếm thì Người bỏ đi thẳng, không cần biết rõ những người đang nói đó là ai.
Người thuờng rất ngạc nhiên khi thấy những bậc nam nhi đã miệt mài vào việc suy lý về Thiên Chúa lại chuyện vãn lâu giờ với các phụ nữ và mất thì giờ với khách khứa như thế trong những câu chuyện tràng giang đại hải, trừ ra vì một công việc hữu ích, hoặc vì đang bàn luận về Thiên Chúa hay về những điều thiêng liêng. Điều làm Người ngạc nhiên tột độ chính là việc - như Người vẫn nói - một người nào - và đặc biệt là các tu sĩ, lại có thể nói về một điều gì khác hơn là Thiên chúa hay những điều có thể giúp củng cố các linh hồn”.
Người ta thường thấy Thánh nhân chậm rãi đi qua đi lại các hành lang tu viện hoặc trong vườn, mắt nguớc lên trời, miệt mài suy niệm. Khả năng tập trung tinh thần của Người thật kỳ diệu. Người ta kể rất nhiều về chuyện đó. Chẳng hạn để làm mất cảm giác khi chịu giải phẩu, Người chỉ cần tập trung tinh thần. Hoặc lần khác đang đêm vừa đọc vừa cầm nến cho thư ký chép, Người đã để cho cháy bỏng cả tay rồi mới biết. Hoặc được mời tới dùng cơm ở nhà thánh Louis, thình lình người ta thấy Người đập mạnh tay xuống bàn làm chén dĩa tung tóe, Người kêu lên: “ra rồi” tôi đã tìm ra chứng lý quyết định chống lại bè Manikê. Đáp lại sự kiện đó thánh Louis hóm hỉnh và tốt bụng kêu các thư ký của mình tới ghi lại chứng lý đó.
Theo lời môt thư ký của thánh Thomas, ông phải luôn luôn đóng vai trò người vú nuôi bên cạnh thánh nhân, vì tình trạng hầu như liên tục “trừu xuất” của Người khiến người khác phải nhắc Người dùng những thức ăn cần thiết cho cơ thể và phải bày ra trước mặt những gì Người phải dùng, vì e rằng Người nuốt phải thứ có hại, sau những thời gian liên tục trừu xuất như thế.
Người không hề biết sợ là gì và người ta còn nói rõ Người rất khỏe mạnh và có thể “đứng vững như trời trồng” ngay giữa cơn bão. Cú đập bàn trên kia đã xảy ra hơn một lần cho chúng ta thấy bất ngờ một điều gì đó đang sôi sục trong Người đàng sau thái độ tự chủ của Người. Theo các nhà chuyên môn về tính tình, con người điềm tĩnh đó là một người nhiệt tình. Những ngưởi nhiệt tình là những người giàu cảm xúc nhưng biết tập trung tính nhạy cảm vào một đối tượng độc nhất. Họ cũng là những người hoạt động không chịu dừng lại thụ động ở một chỗ, nhưng dùng hết sức lực để đạt tới đối tượng, hoặc nhằm đối tượng hay thực hiện đối tượng đó. Không dừng lại ở suy tư, nhưng còn diễn tả tư tưởng đó bằng lời nói và chữ viết; với một sức hoạt động mạnh mẽ như thế, kiến tạo nên những nhà trí thức thực sự, muốn in sâu suy nghĩ của mình vào tâm trí người khác, chỉ sống vì những điều đó, không nhàn rỗi một lúc nào. Thật vậy, vẫn trầm tĩnh mà lại hoạt động cách kỳ diệu. Nhưng điều thôi thúc tính hoạt động như thế chính là đam mê, là tình yêu.
Những người nhiệt tình không luôn luôn là những người dịu dàng. Còn Người lại là một con người dịu dàng như nhiều nét trong cuộc đời Người cho thấy, cũng như cách thế ngọt ngào và đầy cảm nghiệm khi Người nói về tình yêu và tình bạn, hoặc hơn nữa, khi nói về Đức Kitô. Quả vậy, tuy ngôn từ Người dùng thấm nhuần tình cảm, nhưng lối hành văn lại rất khách quan, nên chỉ diễn tả được điều Người thấy và hầu như không bao giờ diễn tả được điều Người cảm nghiệm – điều Người diễn đạt là chân lý chứ không phải con người của Người. Đàng khác, Người khóc dễ dàng và đặc biệt trong thánh lễ, hoặc còn hơn nữa, như người ta kể lại, trong giờ kinh tối mùa chay, khi hát bài Media Vita với vẻ khẩn khoản và sầu buồn… “Giữa cuộc sống chúng con đang đắm chìm trong sự chết, lạy Chúa, xin đừng bỏ rơi chúng con, trong lúc già nua tuổi tác, khi sức lực chúng con hao mòn”. Tôi vẫn thích ghi lại lòng sùng mộ đặc biệt của Người đối với thánh nữ tử đạo Agnes. Người luôn mang ảnh thánh nữ trên mình và mừng lễ thánh nữ bằng một bữa ăn huynh đệ thịnh soạn.
Các tài năng tâm trí Người quả là kỳ diệu. Tuy nhiên Người không có hết mọi tài năng đó và nếu xét riêng rẽ từng biệt tài thì vẫn có nhiều người hơn Người. Tôi hoàn toàn không có ý nói rằng Người không phải là một nghệ sĩ hay thi sĩ, vì Người đã viết những bài kinh nguyện về thánh thể, và cách kết cấu của bộ tổng luận học là cấu trúc của một thánh đưòng thiêng liêng. Nhưng Người không trội hẳn về trí tưởng tượng, và có lẽ Người sẽ tự trách mình nếu đã thêm vào lối hành văn một chút văn hoa vốn chẳng ích gì để diễn tả điều mà Người muốn làm cho người khác thấy và hiểu.
Dường như Người không là một nhà quan sát về thiên nhiên cũng như về con người. Người chú ý tới nét tổng quát hơn là nét đặc thù. Người ta kể lại rằng: lúc còn thơ ấu, khi Người sắp khóc, thì chỉ cần đặt miếng da vào miệng Người là Người nín ngay. Sau này, chính bằng tâm trí mà Người ngấu nghiến sách vở. Nhưng Người thấu triệt chúng hoàn toàn. Người đã từng nói không bao giờ Người đọc điều gì mà không hiểu và theo Người, hiểu tức là thấu đáo, không còn chút gì u tối. Đàng khác, Người nhớ tất cả những gì đã đọc. Tuy nhiên, điều khiến chúng ta ngạc nhiên hơn cả về Người, và còn hơn cả khả năng chăm chú và tập trung tinh thần nơi Người, chính là sự chính xác về phán đoán và phân biệt, cảm quan tuyệt diệu dường như không hề sai về “cái chân” và “cái giả”. Sự thấu triệt về phân tích giúp Người phân biệt mọi khía cạnh vấn đề, đồng thời sức mạnh tổng hợp giúp Người tập trung mọi kiến thức vào một khối duy nhất. Trong khi Người không quên toàn thể lúc chú tâm vào những chi tiết nhỏ nhặt nhất.
Khả năng làm việc của Người thật lạ lùng. Người có nhiều thư ký và như người ta kể lại, cùng một lúc Người đọc cho nhiều thư ký chép, như Napolêon sau này cũng thế. Người ta còn kể là Người đọc lúc đang ngủ. Theo thiển ý, lúc đó Người không ngủ, nhưng khi chú tâm vào vấn đề, Người đã cho thân xác nghỉ ngơi.
Không thể nói hết các thiên khiếu của trí tuệ Người. Nhưng xét cho cùng, nét thánh thiện của Người nằm ở chỗ nào trong các thiên khiếu đó? Trong lãnh vực chân lý trần thế, những nhà thông thái mải mê suy tư, họ chỉ sống trong trí tuệ và người ta không dám nói họ là những vị thánh. Người ta cũng tự hỏi có ngăn trở nào cho sự thánh thiện trong việc hiến trọn đời cho tư tưởng không? Ham thích hiểu biết không phải là một trong ba dục vọng đó sao? Và hơn nữa, nó chẳng đã cung cấp cho tính kiêu ngạo một chất liệu quí giá nhất đó sao?
Thành thực mà nói, chính tính kiêu ngạo đã đe dọa ông hoàng trí tuệ đó. Nhưng Người đã cho là khờ dại khi thấy một sự kiêu căng nhỏ. Người nói con người thiên tài vĩ đại nhất còn thấp kém hơn sự thấp kém nhất của thiên thần. Sự khiêm tốn của người học giả đích thực là biết sự khôn ngoan của mình nhỏ bé biết bao, và tất cả đều do Thiên Chúa, nhất là những gì mình có hơn kẻ khác. Nhưng người ta không thể chỉ nhận ra điều đó mà lại không thể hiện bằng hành động. Chính khi coi là tự nhiên việc mình bị quên lãng hay bị coi thường, là lúc người ta chứng tỏ sự khiêm tốn của mình. Như câu chuyện nhỏ sau đây là một minh họa: cha bề trên tu viện nói với một thầy là đi tìm một thầy khác để cùng đi công việc. Thầy đó lại không biết thầy Thomas là ai. Lúc đó thánh Thomas đang đi đi lại lại trên hành lang tu viện như thói quen của Người lúc suy tư, thầy đó đã yêu cầu thánh Thomas cùng đi, và vị giảng sư đã chấp nhận không ngần ngại bởi cha bề trên đã nói: “Người anh em thầy gặp trước tiên”. Rồi người ta thấy thánh Thomas bị dẫn đi qua các đường phố, mồ hôi nhễ nhãi, hơi thở hỗn hển, người qua đường tỏ vẻ bất bình. Họ hỏi tại sao Người lại vâng lời như thế, Người đã trả lời rằng: “Đời sống tu trì trọn hảo trong đức tuân phục, vì qua sự vâng phục, con người tuân phục vì tình yêu Thiên Chúa, cũng như vì chính con người mà Thiên Chúa đã tuân phục con người”.
Các thầy thường dễ nổi nóng khi thấy tư tưởng của mình bị công kích, còn Thánh Thomas luôn luôn bảo vệ tư tưởng mình một cách điềm tĩnh và với tính tự chủ tuyệt diệu. Người tự tin nơi chính mình. Tốt hơn cả hãy nghe Người nói và nghiền ngẫm thái độ khiêm tốn cùng với tính vô tư khách quan và sự điềm tĩnh của Người lúc tổng hội của dòng triệu Người tới để bảo vệ ích lợi cho các tu sĩ khất thực, chống lại sự công kích mạnh mẽ và nguy hiểm của các vị giảng sư ở Paris: “Thưa anh em, anh em hãy tin tưởng nơi Chúa, Đấng đã thương gọi anh em đến phục vụ Người. Tôi đã đọc qua cuốn sách nhỏ gian xảo công kích chúng ta. Tôi thấy rằng cuốn đó không dựa nhiều trên chân lý đức tin và lập luận không được vững vàng. Đáp lại sự châm biếm này, sau khi cầu xin Thánh Linh, Đấng vạch trần mọi sai lầm và mạc khải những điều còn trong bí ẩn, tôi sẽ trả lời bằng một cuốn sách hợp với chân lý”.
Người đã không bảo vệ chính mình mà là bảo vệ chân lý. Một ngày kia khi nguời ta công khai nói ngược lại Người trong cuộc bảo vệ luận án, Người đã thinh lặng và khi bị anh em trách móc về điều đó, Người đã trả lời: “Này anh em, tôi nghĩ nên bỏ qua cho vị tân giảng sư ngày nhậm chức của ông và đừng làm ông ta bẽ mặt trước các vị tiến sĩ, còn phần đạo lý của tôi, tôi không sợ một vị tiến sĩ nào phản kháng lại, dù cho họ nói rằng có Thiên Chúa trợ giúp, hay dựa vào thế giá các thánh và dựa vào những nguyên lý chân thực.”
Xem ra toàn là những chuyện vặt !!! Nhưng chúng cho thấy nhiều điểm và nhất nữa, đó lại là chứng từ của những người đã từng quen biết Người. Người lấy làm khó tin việc một người phạm tội, vì Người nghĩ mọi người giống như Người hay còn tốt hơn Người trong sự vô tội và trong ân sủng tự nhiên. Người lấy làm “kinh ngạc” về những yếu đuối của người khác. Làm sao một tu sĩ có thể nói điều gì khác ngoài Thiên Chúa? Để chế nhạo sự ngây thơ của Người, một người anh em nói với Người: “Này anh Thomas, ra mà xem có con bò đang bay”. Và Người thật lòng đi. Khi người ta cười Người, Người trả lời: “Tôi tưởng có con bò biết bay hơn là có một tu sĩ nói dối”.
Người quá bận rộn đến nỗi không thực thi được lòng bác ái chăng? Nhưng đời sống trí thức của Người là gì nếu không phải là đặt hết tâm trí và sức lực của mình để phục vụ người khác? Ngay như bộ tổng luận thần học, Người chỉ viết vì lòng bác ái trí thức để giúp anh em sinh viên đang loay hoay trong vô vàn các vấn đề và các tranh cãi. Người không tìm vinh danh của mình nhưng nhằm giúp ích cho những người khác. Như thánh Đaminh, Người đam mê với công việc giảng dạy cũng như việc tông đồ vốn là những công việc dễ làm người ta kiệt sức khi không giữ chừng mực. Thánh Thomas, bậc tôn sư vĩ đại, đã yêu thích việc giảng thuyết, ngay cả cho những người dân thường, đơn sơ. Tuy nhiên, Người chỉ có thể làm công việc đó ở thành Naples vì Người không hề học một ngôn ngữ nào khác ngoài tiếng mẹ đẻ, và dĩ nhiên, tiếng La tinh nữa. Đàng khác, người ta cũng nhấn mạnh rằng Người đã làm tất cả những gì có thể làm cho người nghèo.
Nhưng điều khiển những người thân cận ngạc nhiên hơn cả chính là tinh thần cầu nguyện nơi con người nghiên cứu này:
“Tất cả những lần Người muốn nghiên cứu, tham gia một cuộc tranh luận long trọng, dạy dỗ, viết sách, hay đọc bài, Người bắt đầu bằng cách rút vào nơi kín đáo để đọc kinh, và Người đã cầu nguyện trong nước mắt để hiểu được mầu nhiệm của Thiên Chúa. Nhờ đó, với càng nhiều nghi ngờ lúc bắt đầu cầu nguyện, Người càng thấy sáng suốt hơn sau khi cầu nguyện. Nếu như gặp một khó khăn, Người bắt đầu cầu nguyện và lạ lùng thay Người tìm được một giải pháp cho điều Người nghi ngờ. Người ta còn nói rằng một lần kia khi giải quyết một nghi ngờ về bí tích Thánh Thể, Người đã viết giải pháp của mình và đặt bản thảo lên bàn thờ, Người cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giêsu, Đấng thực sự hiện diện trong bí tích kỳ diệu này, là Đấng tạo hóa, Người đã dựng nên mọi vật cách lạ lùng, con khẩn nài xin Chúa giúp con hiểu được Người trong vấn đề con đang tìm kiếm và để giảng dạy đạo lý của Người theo qui luật chân lý; nếu điều con đã viết là chân thật, xin Người cho con nói và trình bày cách sáng sủa. Nhưng nếu con đã viết điều gì không hợp với đức tin và lạc xa những mầu nhiệm của bí tích này thì xin Người đừng để sách vở của con trình bày những điều sai lạc với đức tin công giáo.
Có thể nói rằng, nếu thánh Thomas đã tiếp nhận tri thức do việc cầu nguyện nhiều hơn là do chính việc học, vì Người đã cầu nguyện về những gì Người nghiên cứu, và ngay sau đó Người đặt tất cả sức mạnh của trí tuệ vào hoạt động tri thức. Người biết rằng sức mạnh đó không hoạt động do chính nó nhưng ân sủng của Chúa đã dẫn dắt Người cách vô hình.
Chúng ta thấy rõ ràng sự tương quan mật thiết giữa đời sống cầu nguyện và đời sống trí thức của Thánh nhân. Chúng ta tìm thấy sự thánh thiện của Người trong cách thức Người thực hành đời sống trí thức. Tuy nhiên, tất cả những nhân đức tôi nhận thấy nơi thánh Thomas có thể được thực hành ngoài đời sống trí thức. Chúng ta có khuynh hướng ca ngợi một bậc thầy vĩ đại như thế, đồng thời lại bằng lòng với việc thực hành cẩn trọng các nhân đức vốn chung chung cho mọi người. Nhưng chính trong đời sống trí thức, trong việc sử dụng lý trí mà thánh Thomas đã nên thánh. Điều này phát xuất từ một tình yêu nồng nhiệt. Chúng ta có thể sánh ví vô số những luận đề của bộ tổng luận thần học như những tổ ong, cái nào cũng chứa đầy mật ngọt (nhưng một mình thánh Thomas là tất cả những chú ong của tổ đó), đương nhiên có những luận đề không còn ích lợi gì nữa hay người ta có thể tranh cãi, nhưng không hề có một luận đề nào không được chú tâm, cũng như không có luận đề nào không được trang bị bằng lý chứng hay nhất thánh nhân có thể tìm thấy và được viết cách chính xác nhất. Nếu có một phán đoán đúng đắn, không chỉ vì Người có một tâm trí hoàn hảo nhưng vì không có đam mê nào khác hơn đam mê chân lý. Tính khách quan đã làm cho Người hoàn toàn tự xóa bỏ mình trước đối tượng, không còn tin vào những tình cảm của mình cảm thấy, với nỗ lực duy nhất là giải thích, để làm cho người khác hiểu, làm cho người khác nhận thấy đối tượng. Như thế, không phải là không có một sự quên mình tuyệt diệu sao?
Sự can đảm và vĩ đại của tâm hồn biểu lộ trong cuộc đối thoại kỳ lạ với Aristote, qua ông, Người đã dám đối thoại với lý trí nhân loại. Sự can đảm và vĩ đại của tâm hồn, thực tế đó là đức trông cậy chỉ dựa trên quyền năng Thiên Chúa. Nhưng sự khiêm tốn và thái độ tuân phục của lòng tin được biểu lộ đồng thời trong việc Người kiên quyết hết mình đi theo truyền thống vốn liên tục từ xưa tới nay, mà không bao giờ hy sinh sự thật. Tôi thiết tưởng phải là một vị thánh mới có thể vừa là một nhà canh tân lại vừa là một người theo truyền thống. Có lẽ Người lấy làm ngạc nhiên khi nghe người ta bàn tán tứ phía. Quả thật, thánh nhân chắc chắn về điều mình tin, còn về điều mình thấy, Người chấp nhận, khước từ, cũng như nghi ngờ. Người xác tín mạnh mẽ thậm chí dám đổ máu để bảo vệ những khẳng định của mình. Người quan tâm nhiều đến việc đặt vấn nạn, việc tìm kiếm, những gì không có sự bảo đảm của đức tin hoặc sự hiển nhiên, và nhất là Người biết rằng mọi tư tưởng của chúng ta, dù là đúng nhất, cũng không sánh được với thực tại thần linh. Không bao giờ Người chiếm hữu chân lý như một của cải riêng mình, như khẳng định của mình, như sản phẩm riêng của trí tuệ mình.
Ít lâu trước khi qua đời, Người được ơn chiêm niệm thiên phú và không thể diễn tả được, và vì thế Người không thể viết gì hơn: “So với những gì đã thấy thì mọi điều tôi viết, đối với tôi, giống như rơm rác”. Có lẽ Người không chờ đến ân sủng này mới nhận ra sự nhỏ bé của tư duy và ngôn ngữ nhân loại. Tôi đã nói về sự khiêm tốn của Người: mọi tác phẩm của Người bộc lộ tinh thần khiêm tốn phục tùng thực tại và hơn nữa, theo thánh nhân, những gì giống với ánh sáng và quyền năng đều phát xuất từ Thiên chúa. Sự khiêm tốn đặt nền trên sự thật và trên sự tôn thờ Đấng cao tôn là nguồn mạch mọi thiện hảo
Người viết: Thiên Chúa là nguồn mọi chân lý, chân lý tuyệt diệu. Như một trẻ thơ, Người đã từng hỏi cha Tu viện trưởng, Montcassin: “Thưa cha, Thiên chúa là gì?” Suốt đời đó là vấn đề độc nhất của tâm hồn Người, Người chỉ lưu tâm đến những gì liên quan tới Thiên Chúa, chính Thiên Chúa xét nơi tự thân Thiên Chúa, nơi tạo vật, cũng như Thiên Chúa là cùng đích và ý nghĩa mọi hành động và cuộc sống con người, Thiên Chúa nhập thể, và là Đấng cứu chuộc trong Đức Giêsu Kitô, và Đức Giêsu Kitô hằng sống trong Giáo hội và trong tâm hồn chúng ta.
Người ta có thể nghĩ rằng Người đã không bộc lộ tâm hồn mình cho chúng ta. Thực ra Người cũng đã làm điều đó phần nào. Hơn một lần, Người đã nói với chúng ta đâu là ý nghĩa của cuộc đời Người. Chắc hẳn không phải cách trực tiếp, nhưng chính là mỗi lần Người nói những gì liên quan tới đời sống chiêm niệm.
Theo Thánh nhân, chính bằng tình yêu mà chúng ta chiêm niệm. Tuy nhiên, không phải bằng tình yêu đối với chính việc chiêm niệm nhưng là bằng tình yêu đối với Đấng chúng ta chiêm ngắm.
Người viết:
- “Chiêm ngưỡng là điều vui thú, nhưng nhất là chiêm ngưỡng người mình yêu!”.
- “Tình yêu của anh ỡ đâu, con mắt của anh ở đó”.
- “Người yêu mến Thiên Chúa bùng cháy lòng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Người”
- “Nơi những người mà tình yêu Thiên chúa bao phủ, thì nhận thức vốn là nguồn phát sinh tình yêu, có được trọn vẹn sức mạnh của nó, vì đối tượng nhận thức đó chính là lòng nhân từ của Thiên Chúa, Đấng là cùng đích của chúng ta và là Đấng tuôn đổ các thiện hảo của Người vào chúng ta. Một nhận thức như thế về Thiên Chúa không thể có nơi những người không yêu mến Thiên chúa”.
- “Người yêu không hài lòng với những hiểu biết hời hợt bên ngoài nhưng muốn đi sâu vào sự thân mật với người mình yêu”.
Nhà trí thức vĩ đại đó viết: “ở trần gian này, không phải trí tuệ nhưng chính tình yêu làm cho hoàn hảo và thánh hóa, vì tình yêu nối kết chúng ta với Thiên chúa. Nhưng trí tuệ trong ánh sáng đức tin tỏ cho chúng ta biết phía bên kia của toàn chân lý, Đấng ta yêu mến”.
Muốn yêu để biết hơn hoặc biết để yêu hơn, cái nào đúng? Tình yêu làm phát sinh nhận thức và làm cho nó trở nên cụ thể hơn, đó là đời sống chiêm niệm của thánh Thomas . Đời sống Người đã diễn ra từ những gì chính Người cảm nghiệm. Và đừng lấy làm ngạc nhiên nếu như một người chiêm niệm như thế, thay vì tự mãn với chính mình, lại làm phát sinh một hoạt động rao giảng và thông truyền. Thánh nhân còn nói: “soi chiếu thì hoàn hảo hơn là chỉ chiếu sáng”. Lời nói phát xuất từ sự chiêm niệm sẽ không làm giảm bớt gì nơi Người nhưng thêm ân sủng cho người khác và làm cho tình yêu Thiên Chúa nơi Người thêm hoàn hảo.” Chiêm niệm và trao cho người khác điều mình chiêm niệm - comtemplari et contemplata aliis tradere” vốn là khẩu hiệu mà thánh nhân đã theo cách gương mẫu, đã trở thành khẩu hiệu của những anh em thuyết giáo. Tôi vẫn thắc mắc tại sao Người lại vào dòng Anh em Thuyết giáo. Ở tuổi 20 có lẽ chúng ta không bao giờ biết “trực giác” đưa mình đi tới đâu. Nhưng được ân sủng Thiên Chúa hướng dẫn, Người không bị sai lầm. Có lẽ mãi về sau thánh Thomas mới hiểu được rõ ràng điều đó. Nhưng Người vào dòng Anh em Thuyết giáo để gặp được Thiên Chúa và trao cho người khác bằng tri thức và lời nói.
Nhưng không thể hiểu được đời sống trí thức của thánh Thomas nếu quên rằng đức tin đã hoàn toàn soi sáng cuộc đời đó. Tình yêu thúc đẩy tìm hiểu đức tin. Người chỉ lưu tâm đến những gì liên quan tới Thiên Chúa, vị Thiên Chúa được mạc khải trong Đức Giêsu Kitô và chúng ta chỉ hiểu được nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, Người tìm cách để hiểu niềm tin của mình, và vì đó, Người sử dụng tất cả những năng lực của tư duy nhân loại, và tất cả những nhận thức của lý trí. Trước khi trở thành sự hiểu biết, niềm tin đã là một sự gắn bó liên lỉ. Chúng ta có thể nói rằng thánh Thomas đã giữ niềm tin trẻ thơ của Người ngay giữa những suy lý thần học cao siêu nhất. Trong một bài giảng nổi tiếng chính Người đã nói : “Một bà lão tin thì biết nhiều hơn Aristote và Platon”. Chính Người cũng biết nhiều nhờ lòng tin hơn là nhờ tri thức. Trong giờ lâm tử, trước Thánh Thể mà vị linh mục trao cho Người, Người đã đặt toàn bộ học thuyết của mình để giáo hội xét định, và Người đã thốt lên rằng mình tin tất cả những gì vị linh mục khiêm tốn này nói về mầu nhiệm mà chính Người đã viết rất nhiều về mầu nhiệm ấy. Người còn nói: “Ở trần gian, nếu nhờ tình yêu mà có được niềm tin chính là do tình yêu được niềm tin chiếu sáng. Và nếu chúng ta có một ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa, thì đó không phải là tình yêu đích thực. Nhưng đức tin cũng được coi như là giai đoạn hưởng kiến sơ khởi. Khát vọng hưởng kiến Thiên Chúa là tiếng gào thét sâu thẳm nhất của tình yêu. Thực vậy, tình yêu thúc đẩy tâm hồn tìm kiếm những gì mình tin, như thế để càng yêu mến hơn, sau cùng là khát vọng hưởng kiến. Về điểm này, thánh Thomas đồng quan điểm với thánh Gioan Thánh giá: “Hãy gạt bỏ tấm khăn ngăn cản cuộc gặp gỡ kỳ diệu này”. Niềm hy vọng hưởng kiến Thiên Chúa trải dài suốt bộ tổng luận Thần học. Khi Đấng bị đóng đinh mà Người vẫn từng cầu nguyện nói với Người: “Thomas, con đã viết thật hay về Cha, con muốm phần thưởng gì?” Người trả lời: “Chỉ mình Người, lạy Chúa”. Chỉ mình Người, tức là Thiên Chúa, phải nhưng Thiên chúa trong Đức Kitô.
Tôi đã nói rằng thánh Thomas đã tự xóa bỏ mình trước đối tượng mà không để lộ ra những tình cảm của tâm hồn Người. Tuy nhiên những ai học hỏi Người đều có cảm nghiệm về một sự hiện diện cá vị mãnh liệt. Cảm nghiệm đó thực khó mà phân tích. Thực vậy, Người có lối hành văn riêng, có phương pháp tư tưởng, những ý tưởng tiêng, những luận đề chính yếu, nhưng Người còn có điều gì khác nữa. Tôi không biết làm thế nào để chứng minh hay giải thích điều Người nhận thấy đó. Chúng ta ở duới sự bảo trợ của một bậc Thầy, cũng như của một người bạn vĩ đại. Tôi không biết tình yêu và niềm vui của Người đối với chân lý thế nào đã khiến Người lên tiếng, cũng như sức mạnh nào, sự chắc chắn nào đã củng cố chân lý cách lạ lùng. Tuy tình yêu thường không được biểu lộ nhưng đôi khi bộc phát ra ngoài và chúng ta có thể đóan định. Nơi thánh Thomas, đó là: một hiến dâng trọn vẹn bản thân cho công việc của khôn ngoan, một sự đơn thành của tâm trí không quay lại với chính mình, một tâm hồn được hưởng kiến mà vẫn đơn sơ tin tưởng như trẻ thơ. Cả con người của Thánh nhân hiện diện trong tác phẩm của Người, không phải vì được kể đến trong đó, nhưng vì suốt qua tác phẩm đó là một tâm trí thuần túy hướng đến chân lý mà Người chỉ diển tả vì đã chiêm ngắm. Quả vậy, một sự trong suốt, và ngay cả sự thuần khiết nữa mà chúng ta tìm thấy điều đó nơi một vài nhà tư tưởng và thông thái, nhưng nơi Người dường như có một điều gì mang tính cách Tin Mừng. Chúng ta không thể không nghĩ đến câu: “Phúc cho những tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”.