Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2022

LÒNG KÍNH NGƯỠNG SỰ SỐNG TRONG BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

Thời sự Thần học - Số 3, tháng 06/2008, tr. 39-53 


_Phaolô Nguyễn Hải Đăng 🙍 


Sự sống luôn là một giá trị thánh thiêng, bất khả xâm phạm, không chỉ được tôn vinh trong nền luân lý tôn giáo mà còn được khẳng định trong các giá trị văn hóa khác biệt. Việt Nam, một quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á, với những nét đặc thù về lịch sử, chính trị, văn hóa, đã góp phần tạo nên sự phong phú, đa diện không những về chủng tộc mà còn về đời sống tinh thần. Bằng tiến trình lịch sử hội nhập, tiếp biến lâu dài giữa văn hóa bản địa với các giá trị văn hóa ngoại lai dần cố kết nên bản sắc văn hóa đặc trưng của cư dân nền văn minh lúa nước, đó là lòng kính ngưỡng sâu xa đối với sự sống, sự gần gũi và tôn trọng thiên nhiên, cùng các giá trị thánh thiêng của đời sống hôn nhân.[1] Nhưng hôm nay, Việt Nam đang đứng trước một khúc ngoặt văn hóa được ghi dấu bằng những dấu hiệu đe dọa đến sự sống con người, thể hiện qua số liệu báo động về thực trạng nạo phá thai và bằng sự kiện Bộ Y Tế Việt Nam đã quyết định chính thức từ ngày 19-08-1997 cho phép bệnh viện phụ sản Từ Dũ thực hiện công nghệ thụ tinh trong ống nghiệm, một hình thức can thiệp trực tiếp trên các phôi thai người. Sự thỏa hiệp này có thể dẫn đến sự lạm dụng nguy hiểm cho những mục đích khác nhau: chẩn đoán, trị bệnh, khoa học và cả thương mại. Điều này đi ngược lại lập trường của Giáo Hội: “Sự sống con người phải được tôn trọng và bảo vệ một cách tuyệt đối, ngay từ lúc thụ thai”.[2] Dù có những vấn nạn phải đối diện, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn luôn là một dân tộc có lòng kính ngưỡng sâu xa đối với sự sống. Nền tảng luân lý này không chỉ được cố kết trong nền văn hóa bản địa mà còn được thể hiện cách phong phú nơi những giá trị văn hóa ngoại lai như: Phật giáo, Đạo giáo, Khổng giáo và Kitô giáo. Bằng cái nhìn hội nhập, thật hữu ích khi chúng ta ngược dòng lịch sử để khám phá giá trị sự sống trong bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam và một cách nào đó thể hiện trách nhiệm của người Kitô hữu trước vấn nạn sự sống đang tồn hiện trong xã hội Việt Nam hôm nay.

I. Việt Nam - một dân tộc yêu sự sống


Việt Nam là dân tộc có đời sống tâm linh khá phong phú và sâu đậm. Có thể nói, cho đến hôm nay sinh hoạt tâm linh vẫn là một sinh hoạt quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Từ việc kính ngưỡng sức mạnh vô hình thể hiện trong việc thờ cúng tổ tiên cho đến tâm thức thần hóa những sức mạnh siêu nhiên gắn với khái niệm quỷ thần, tiên phật đã trở thành nhịp điệu thường ngày trong đời sống của người Việt Nam.

Với tâm thức thần hóa vạn vật, người Việt Nam quan niệm vạn vật hữu linh, từ các hiện tượng tự nhiên như trời đất, rừng núi, sông suối, sấm chớp … đến nhà cửa, làng mạc, hòn đá, gốc cây đều có hồn mà tùy theo dân tộc được sùng bái theo những hình thức khác nhau. Tâm thức kính ngưỡng sâu xa đối với sự sống, nét đặc trưng của văn hóa nông nghiệp lúa nước, đã trở thành căn tính trong bản sắc văn hóa và tín ngưỡng cổ truyền. Bản sắc này này không ngừng được bảo tồn và phát triển nhờ quá trình giao lưu tiếp biến với các nền văn hóa ngoại lai như: văn hóa Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Hoa … góp phần tạo nên sự đa diện, phong phú trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Từ tín ngưỡng vạn vật hữu linh, Tô-tem giáo tiến dần đến những hình thức tín ngưỡng mang nhiều dấu vết văn hóa ngoại lai (Đạo giáo, Phật giáo, Khổng giáo) như đạo thờ Tổ Tiên, chư Thánh, Thành Hoàng, đạo thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ cúng các anh hùng dân tộc … Tất cả những hình thức tín ngưỡng này khi du nhập vào Việt Nam đã trở thành bản sắc văn hóa bởi chúng hòa điệu với lối sống của cư dân nông nghiệp lúa nước là tâm thức hài hòa và kính ngưỡng sự sống thể hiện trong sinh hoạt cộng đồng, trồng trọt, lễ hội, âm nhạc, … đặc biệt là trong các tín ngưỡng bản địa.
 

1. Tín ngưỡng phồn thực nông nghiệp


Dân tộc Việt Nam là dân tộc gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước, quanh năm lệ thuộc vào sự hòa điệu của tự nhiên. Vì vậy, ngay từ thời xa xưa, dân tộc Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của vũ trụ luận nguyên sơ âm dương tương khắc tương sinh. Sự hòa điệu, luân chuyển âm dương chính là nguyên lý phát sinh sự sống của con người và vạn vật. Hơn nữa, sự lệ thuộc thái quá vào tự nhiên trong hoạt động sản xuất nông nghiệp góp phần hình thành nên tâm thức thần hóa vạn vật. Từ hòn đá vô tri, cây đa, giếng nước đến mây mưa, sấm chớp, … đều có những mối liên hệ, tác động trực tiếp đến con người. Thế giới tự nhiên là hồn sống siêu nhiên mà con người phải kính ngưỡng bằng những hình thức sùng bái, lễ nghi để cầu mong sự trợ giúp, sự sinh sôi của vụ mùa. Quan niệm này được thể hiện rõ nét nơi tín ngưỡng phồn thực bản địa, tín ngưỡng tôn thờ Mẹ Lúa-Thần Lúa-Vía Lúa, được nhân cách hóa bằng hình ảnh người Mẹ với những nghi thức phong phú: Mẹ Lúa gieo hạt và thu hoạch bông lúa đầu tiên, đúc tượng lúa, rước mạ ra đình, thờ vỏ trấu, khấn vía lúa và gọi gạo….[3]

“Phồn thực” có nghĩa là sự sinh sản, sinh sôi dồi dào. Cư dân nông nghiệp liên tưởng nó với một lực lượng siêu nhiên như nguồn gốc sự sống của vạn vật. Lối quan niệm này chịu ảnh hưởng sâu sắc của vũ trụ luận phương Đông: Âm-Dương là hai nguyên khí căn nguyên của vũ trụ; sự kết hợp Âm-Dương là nguyên ủy sự sống muôn loài. Quan niệm “âm dương-lưỡng phân lưỡng hợp” của vũ trụ luận phương Đông khi đi vào tín ngưỡng bản địa được chuyển hóa thành hai biểu tượng đặc trưng về sự sống của cư dân nông nghiệp là Đực và Cái. Con người muốn tiếp nối sự sống, cây cối muốn sinh trưởng ra hoa kết quả phải có sự giao hòa Âm-Dương, Đực-Cái. Vì vậy, trong tín ngưỡng phồn thực bản địa, trước mùa gieo cấy, bao giờ người ta cũng thờ cúng và tái hiện việc giao hòa Âm-Dương cùng các trò diễn giao phối nam-nữ qua biểu tượng sinh thực khí, một cách tôn vinh và kính ngưỡng sự sống như một thực tại siêu hình chi phối các hoạt động xã hội của con người.

a. Dấu vết lịch sử – đền thờ và lễ hội

Có thể nói, những hình thức nghi lễ phồn thực không còn phổ biến trong sinh hoạt tinh thần của người Việt Nam nhưng những dấu vết của nó vẫn còn tồn tại trong tâm thức và các di chỉ lịch sử. Theo sử liệu, khi nước ta chịu sự đô hộ của Trung Hoa, tư tưởng Nho giáo du nhập và dần chi phối mọi hoạt dộng chính trị-tư tưởng-xã hội. Nền luân lý Nho giáo xem tín ngưỡng phồn thực bản địa là một hình thức “dâm thần” nên tìm cách hạn chế và xóa bỏ. Nhưng những di chỉ còn sót lại cùng những lễ hội dân gian vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, một cách nào đó khẳng định tâm thức kính ngưỡng sự sống là một bản sắc đặc trưng của văn hóa cổ truyền Việt Nam.

Trên vùng đất Thăng Long-Hà Nội ngày nay, có một ngôi chùa khá nổi tiếng-Linh Quang Tự- còn gọi là chùa bà Đanh. Trong chùa có đặt tượng một người phụ nữ ngồi xổm, phô bày sinh thực khí, một biểu tượng đặc trưng của tín ngưỡng phồn thực. Truyền thuyết dân gian “vắng như chùa bà Đanh” xuất phát từ trào lưu chống đối của Nho giáo đối với các tín ngưỡng phồn thực bản địa.[4]

Tín ngưỡng tôn thờ phồn thực, sinh thực khí còn được thể hiện trong các bia ký và nghệ thuật trang trí đình-chùa. Như hình tượng người phụ nữ phô bày sinh thực khí hay họa tiết rắn bao phủ thân thể người phụ nữ, biểu tượng phồn thực âm-dương, được điêu khắc ở đình Phù Lão, chùa Thổ Hà (Lạng Giang-Bắc Giang) … là nét đặc trưng về sức mạnh chi phối của quan niệm phồn thực trong tâm thức người Việt cổ. Bên cạnh các di chỉ còn có các hình thức lễ hội dân gian nhằm tái hiện khát vọng sự sống trong sinh hoạt văn hóa của dân tộc ta, tiêu biểu là lễ hội ông Đùng-bà Đà (làng Đông An-Hưng Yên), múa Mo và rước sinh thực khí.
 
b. Lễ hội phồn thực ông Đùng-bà Đà


Ông Đùng –bà Đà là vị thần thành hoàng của làng Đông An (Hưng Yên). Lễ hội bắt đầu từ mồng 6 đến mồng 10 thánh ba âm lịch hằng năm. Lễ hội tái diễn hai khái cạnh tương phản trong tâm thức tôn giáo của người Việt Nam. Một mặt lễ hội lên án, phê phán tội loạn luân[5]. Nhưng bên cạnh đó, lễ hội cũng thể hiện tâm thức kính ngưỡng sự sống của văn hóa phồn thực qua nghi thức đám rước diễn xướng cảnh giao hoan nam-nữ .

Một lễ hội pha trộn, đan xen nhiều giá trị văn hóa khác biệt. Ở tầng sâu nhất của cổ tục này là nghi lễ nông nghiệp đặc trưng với hình thức hiến sinh đôi trai gái trong trạng thái giao hoan để dâng vị thần nghề nông, cầu mong sự sinh sôi, phát triển vụ mùa. Bên cạnh đó còn có dấu vết tín ngưỡng Tô-tem qua nghi thức lấy nước ở khúc sông ngâm xác hai ông bà để đồ xôi cúng thần sau đó cả làng cùng hưởng lộc một nghi lễ phản ánh hình thức thị tộc giết chết Tô-tem (tổ tiên) của mình và sau đó ăn thịt tổ tiên như một biểu hiện của việc đồng thân, nhập xác với tổ tiên.[6] Qua đó chúng ta có thể thấy rằng, tâm thức thần hóa vạn vật và quan niệm sự sống đã chi phối cách mạnh mẽ mọi sinh hoạt tôn giáo và xã hội của dân tộc Việt Nam ngay từ buổi sơ khai.
 
c. Tục rước sinh thực khí và trò diễn phồn thực dân gian

Tục rước sinh thực khí là hình thức biểu hiện cụ thể nhất của tín ngưỡng phồn thực, tôn vinh giá trị sự sống của cư dân nông nghiệp. Vũ trụ luận Việt Nam và phương Đông là âm dương tương khắc tương sinh. Sự hòa hợp âm-dương, đực-cái theo quan niệm dân gian sẽ mang lại phong đăng cho mùa màng và sức khỏa cho con người. Vì vậy, tục rước sinh thực khí khá phổ biến trong các lễ hội dân gian ở miền Bắc Việt Nam như tục rước sinh thực khí ở làng Đồng Kỵ (Từ Sơn-Bắc Ninh): đoàn rước gồm các bô lão, chức sắc trong làng, tay cầm hai lễ vật là hai sinh thực khí nam-nữ, vừa đi vừa làm động tác lồng vào nhau, biểu tượng của sự giao hòa trời đất, cội nguồn phát sinh sự sống. Bên cạnh tục rước sinh thực khí còn có các hình thức múa Mo[7] (âm vật), lễ hội bắt trạch trong chum[8] (Vĩnh Tường-Vĩnh Phúc), rước và cướp Nõ Nường trong các lễ hội phồn thực ở Sơn Đông (Hà Đông), Khúc Lạc, Dị Nậu (Phú Thọ) …. Như vậy, rõ ràng khác với tục ông Đùng-bà Đà, các lễ hội nêu trên đã thể hiện cách công khai cổ tục phồn thực dưới dạng nguyên thủy, thể hiện ước vọng sinh sôi nảy nở của những cư dân nông nghiệp trong xã hội cổ truyền.

Với tất cả những dấu vết lịch sử từ đền thờ, cổ tục phồn thực đến lễ hội, trò diễn còn bảo tồn cho đến ngày nay là một minh chứng rõ ràng về tâm thức kính ngưỡng sự sống như một thực tại siêu hình chi phối mọi sinh hoạt xã hội của người Việt ngay từ buổi ban sơ. Tín ngưỡng nông nghiệp là sinh hoạt tinh thần chủ yếu của người Việt. Nó thật gần gũi, gắn bó như máu thịt bởi sinh hoạt của dân tộc Việt buổi ban sơ gắn liền với môi trường tự nhiên. Đất, nước, sông ngòi, cây cối, … thật gần gũi đến nỗi được nhân cách hóa như một người Mẹ có thể chở che, bảo vệ, hộ phù. Không một dân tộc nào trên trái đất này lại dùng danh từ “đất-nước” để chỉ lãnh thổ sinh hoạt của mình. Đất-Nước, hai biểu tượng sự sống gắn liền với hoạt động trồng trọt nông nghiệp, phản ánh khát vọng sống hòa hợp với môi trường tự nhiên, một nét đặc trưng của vũ trụ luận phương Đông âm dương hòa hợp tương sinh vạn vật.

Từ tâm thức thần hóa vạn vật, hình thức cổ xưa nhất của tín ngưỡng nhiên thần, dân tộc Việt Nam dần tiến thêm một bước quan trọng trong lãnh giới tinh thần là việc nhân cách hóa các thần tự nhiên thành hệ thống nhân thần.[9] Đây cũng chính là giai đoạn con người bắt đầu khám phá về bản thân mình. Mối quan hệ giữa thế giới hữu hình và vô hình, giữa cái sống và cái chết trở thành mối bận tâm của con người. Dân tộc Việt Nam quan niệm rằng con người có hồn và xác, thể xác và linh hồn vừa gắn bó vừa tách biệt. Như vậy theo quan niệm dân gian, chết cũng là một dạng sống mới trong một thế giới khác. Giữa thế giới người sống và người chết, trong tâm thức người Việt, vẫn có một mối dây liên hệ mật thiết, gọi là hiện tượng âm phù-người chết phù trợ cho người sống. Chính tâm thức này làm phát sinh một một hình thức tín ngưỡng khác, gọi là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Đây là bước nhảy vọt trong lãnh giới tinh thần của người Việt. Từ tín ngưỡng phồn thực, kính ngưỡng sự sống như một thực tại bên ngoài tiến đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người Việt Nam bắt đầu quay trở về đời sống nội tâm khám phá giá trị sự sống như một thực tại gắn liền với đời sống của con người.

2. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên


Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên phản ánh sự tiếp nối sự sống giữa thế giới người sống và người chết trong mối dây liên hệ, gắn bó về mặt huyết thống. “Gia đình như một đền thờ lớn. Các thành viên còn sống đứng ở trụ lang, ở cổng vào. Lần lượt kẻ trước người sau, họ vượt qua cái ngưỡng khủng khiếp, đi qua cửa của sự chết vào phần kia của đền thờ, vào trong cung thánh. Nhưng người này cũng như kẻ kia đều luôn trú ngụ dưới cùng một mái nhà. Các mối dây liên kết họ trong cuộc sống không bị cái chết tháo cởi, trái lại, nó trở thành vững vàng và trường cữu.”[10]

Ông bà, cha mẹ dù qua đời nhưng vẫn có một sơi dây nối kết với con cháu ở cuộc sống hiện tại. Dường như không có sự khác biệt giữa hai lãnh giới sống-chết trong tâm thức người Việt. Sự sống tiếp nối liên tục và cái chết chỉ là một dạng sống mới. Trong nghi thức thờ cúng, ông bà vẫn được hưởng dùng những vật phẩm của thế giới hiện tại và con cháu quan niệm ông bà đang hiện diện như một thực thể sống động. Một quan niệm tâm linh thật dung dị, gần gũi phản ánh tâm thức kính ngưỡng sự sống sâu xa của dân tộc Việt Nam, một nét đẹp, một bản sắc văn hóa thật đáng trân quý và tôn vinh.

a. Nền tảng lịch sử

Có nhiều nhận định khác nhau về nguồn gốc phát sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tại Việt Nam. Đây là một tín ngưỡng bản địa hay phát sinh trong qua trình hội nhập, tiếp biến văn hóa Trung Hoa? Về phương diện lịch sử, chúng ta có thể khẳng định rằng đây là một tín ngưỡng bản địa, một bước tiếp nối xuất phát từ tín ngưỡng Tô-tem của người Việt cổ. Ngay từ buổi ban sơ, người Việt đã xây dựng một hình tượng vật tổ qua truyền thuyết Cha Rồng-Mẹ Chim (Lạc Long Quân-Âu Cơ) như nguồn gốc phát sinh dân tộc và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là bước tiếp nối của khát vọng sự sống này. Nhưng để tín ngưỡng này phát triển thành hệ thống lý thuyết và nghi thức thực hành chặt chẽ như một nền tảng luân lý thì phải nhờ vào sự đóng góp của Nho giáo bởi “hệ tư tưởng Nho giáo đã có công thổi vào quan điểm bản địa mộc mạc này một triết lý, một tổ chức, một nghi thức, một niềm tin sâu sắc.”[11]

Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ra đời trong những điều kiện lịch sử-xã hội nhất định. Từ hình thức liên minh cộng đồng nguyên thủy tiến đến hình thức liên kết gia đình sơ khai. Từ chế độ mẫu hệ với tín ngưỡng vật linh tiến đến thời kỳ phụ hệ với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, gắn liền với quá trình tiếp biến văn hóa Trung Hoa. Trong gần 1000 năm Bắc thuộc, nền văn minh trồng lúa nước ở châu thổ sông Hồng đã hòa mình vào nền văn minh chung của Á Đông, mà Trung Quốc là trung tâm, trên tất cả các phương diện bao gồm cả phong tục và tín ngưỡng. Sự giao thoa văn hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ khi dòng người Hán di cư vào nước ta ngày càng đông suốt từ thời Tây Hán cho đến đời Đường và sau này trở thành một bộ phận cư dân Việt Nam. Thành phần cư dân này là nhân tố quan trọng góp phần hội nhập văn hóa Hán vào nước ta, đặc biệt là tư tưởng Nho giáo. Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam là sự đan xen giữa những giá trị văn hóa bản địa và hệ thống tư tưởng-luân lý Nho giáo trong quá trình tiếp biến văn hóa. Một sự dung hợp tạo nên sự đa diện, phong phú nhưng không làm suy giảm giá trị sự sống trong văn hóa bản địa.

b. Giá trị sự sống trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
 
± Sự sống tiếp nối không ngừng theo quy luật luân chuyển của vũ trụ…

“Thờ cúng tổ tiên không phải là một tôn giáo … mà là lòng thành kính và biết ơn của con cháu đối với người đã khuất.”[12] Đạo lý thờ cúng tổ tiên xuất phát từ quan niệm về sự tồn tại của linh hồn và mối liên hệ giữa giữa người đã chết và người sống. Sự sống tiếp nối không ngừng theo quy luật luân chuyển của vũ trụ, một tâm thức gắn liền với cư dân nông nghiệp lúa nước, cả cuộc đời gắn bó với sự biến chuyển của thiên nhiên.

Lòng kính ngưỡng sự sống còn thể hiện trong mối tương liên giữa con người với con người, giữa người đã khuất và người còn sống như một sự tiếp nối lần lượt từng người bước qua cửa của sự chết vào phần bên kia của đền thờ, vào trong cung thánh. Nơi đó, các mối dây liên kết họ trong cuộc sống không bị cái chết tháo cởi, trái lại nó trở thành vững mạnh và trường cửu.[13] Vì vậy, thờ cúng tổ tiên không chỉ thể hiện tâm thức kính ngưỡng vật tổ, nét văn hóa-tín ngưỡng Tô-tem của người Việt cổ mà còn biểu lộ đạo lý uống nước nhớ nguồn.
 
± Uống nước nhớ nguồn – một trách hiệm luân lý về sự sống

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nhắc nhở con cháu về lòng thành kính, nhớ ơn các bậc sinh thành như một trách nhiệm luân lý. Trách nhiệm không chỉ thể hiện trong các hành vi sống (gìn giữ danh dự và tiếp nối truyền thống của gia đình, dòng họ, đất nước) mà còn trong các hành vi cúng tế “Các thành viên trong gia đình kính dâng các đồ cúng lễ là tuyệt đối cần thiết để linh hồn tổ tiên có được sự yên nghỉ thanh thản ở thế giới bên kia.”[14] Khi cúng lễ tổ tiên, người Việt Nam không chỉ mong nhận được phúc ấm của tổ tiên mà còn chuẩn bị phúc đức cho con cháu đời sau. Một quan niện sống duy tình-quy hướng về quá khứ, định hướng cho hiện tại (giáo dục truyền thống gia đình) và chuẩn bị hành trang đạo lý cho thế hệ tương lai. Chính quan niệm tâm linh này đã giúp bảo tồn và tiếp nối những giá trị sự sống từ nền văn hóa bản địa, không ngường phát triển cho đến ngày nay.
 
± Thờ cúng tổ tiên-sức mạnh xây dựng cộng đồng

Thờ cúng tổ tiên còn là hình thái tín ngưỡng có ý nghĩa lớn về mặt tổ chức cộng đồng:[15] Con người chỉ có thể tồn tại trong các mối tương quan xã hội. Và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có ảnh hưởng rất lớn trong việc gắn kết các thành viên trong một cộng đồng, cụ thể là trong một dòng tộc, một gia đình cơ bản. Chúng ta không ngạc nhiên khi có người nhận định bản sắc văn hóa Việt Nam là văn hóa làng xã. Cộng đồng làng, xã chính là nguồn sức mạnh nuôi dưỡng đời sống tinh thần của người Việt Nam. Yếu tố văn hóa này chịu ảnh hưởng của nền luân lý Nho giáo. Theo chiều dọc phụ hệ, thờ cúng tổ tiên là sự tiếp nối các thế hệ: ông bà, cha mẹ, bản thân. Theo trục ngang, thờ cúng tổ tiên gắn kết các thành viên trong mối liên hệ dòng họ. Với tư cách là một tập thể-bao gồm người đang sống và người đã khuất-gắn bó với nhau về huyết thống và thờ chung một thủy tổ, dòng tộc có sức mạnh đảm bảo giá trị tinh thần cho mỗi thành viên trong cộng đồng. Với nền tảng tâm linh cố kết của mình, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã bảo tồn và phát triển cách phong phú những giá trị sự sống của nền văn hóa bản địa, và một cách nào đó đã hợp nhất sự hỗn dung tín ngưỡng, một trong những nét đặc trưng của văn hóa Việt Nam. Đến thời điểm này, dân tộc Việt Nam đã định hình một kết cấu đạo đức xã hội khá rõ nét dù chưa có hệ thống, cơ cấu chặt chẽ.

Đến những năm 110 TCN - 39 CN, nền văn hóa bản địa trải qua giai đoạn giao lưu tiếp biến với các nền văn hóa lớn: Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Hoa. Chính nét “hòa tính” trong tâm thức người Việt đã dung hòa những khác biệt trong văn hoá ngoại lai, tạo nên hiện tượng đồng nguyên tôn giáo, đặc biệt là sự đóng góp của Nho giáo trong việc xây dựng hệ nguyên lý cho việc thờ cúng tổ tiên. Tư tưởng Nho giáo với chủ thuyết xem trọng gia đình như nhân tố nền tảng của xã hội, “tề gia” được xem là nấc thang trong quá trình tu thân. Hơn nữa, luân lý Nho giáo đề cao chữ hiếu như một nền tảng đạo lý-“đạo hiếu”. Một cách ngẫu nhiên, Nho giáo trở thành mảnh đất thuận lợi để những hạt giống tâm linh bản địa nẩy mầm và phát triển, cụ thể là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được hệ thống, lễ nghi hóa trở thành chuẩn mực đạo đức xã hội của các thể chế phong kiến tại Việt Nam. Quốc Triều Hình Luật của nhà Lê đã đưa ra những quy định rất chặt chẽ về luật hương hỏa (điều 399 và 400): Ruộng hương hỏa, dù con cháu nghèo khó, cũng không được đem bán trái pháp luật, có người tố cáo phải ghép vào tội bất hiếu. Vì đây là nguồn tài sản được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác dành cho việc thờ cúng tổ tiên, không được xâm phạm. Hơn nữa, các vương triều phong kiến còn có chế độ khen thưởng bổng lộc cho các “hiếu tử”-những người mà lúc “cha mẹ sống lấy lễ mà thờ, cha mẹ chết lấy lễ mà táng.” Như vậy, về phương diện lịch sử, những giá trị sự sống trong bản sắc văn hóa bản địa không hề suy tàn trong quá trình tiếp biến văn hóa nhưng được tiếp nối và phát triển phong phú nhờ những yếu tố văn hóa ngoại.

II. Nho giáo-nhân tố bảo tồn và phát triển giá trị sự sống trong văn hóa bản địa


1. Nền tảng lịch sử


Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Nho giáo du nhập vào nước ta vào thời Tây Hán (khoảng 110 TCN-39), khi cường quyền nước lớn Trung Hoa đặt ách thống trị, khởi đầu 1000 năm Bắc thuộc. Chính quyền phong kiến nhà Tây Hán đặt các thái thú Tích Quang và Nhâm Diên trị sở về mặt hành chính quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Theo sử liệu, chính thái thú Tích Quang và Nhâm Diên với đường lối nghĩa giáo, lễ trị là những người có công đầu trong việc truyền bá và phát triển tư tưởng Nho giáo trên vùng đất Lĩnh Nam. Đến những năm 187-226, thái thú Giao Châu là Sĩ Nhiếp, một người am tường các sách kinh điển Nho gia, đã góp phần làm phát triển học thuyết Nho giáo qua việc giáo hóa dân chúng, vì vậy ông đã được dân tộc ta tôn xưng là Nam Giao Học Tổ. Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi lại: “Sau khi Hán Linh Đế mất, thiên hạ loạn lạc, chỉ có Giao Châu, trị sở của Sĩ Nhiếp, người khoan dung, nhân hậu, kính trọng kẻ sĩ, là còn hơi yên tĩnh, nên nhân tài, danh sĩ nhà Hán sang lánh nạn khá đông, trong số đó có nhiều người làm nghề dạy học truyền bá đạo Nho.”[16]

Chính Nho giáo là nhân tố góp phần xây dựng hệ nguyên lý cho việc thờ cúng tổ tiên vốn có nguồn gốc từ bản địa, ở cả ba phẩm trật: gia đình, dòng tộc và nhà nước. Khổng Tử là người đầu tiên xây dựng một học thuyết hoàn chỉnh cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong học thuyết Nho giáo. Ở nước ta, việc cúng tế tổ tiên từ khi chịu ảnh hưởng của Nho giáo mới phân theo thứ bậc và lễ tiết. Sách Đại Nam nhất thống chí có ghi: các rằm tháng giêng, tháng bảy và tháng mười gọi là tam nguyên, các nhà đều thờ cúng tổ tiên.[17] Các vương triều phong kiến ủng hộ tín ngưỡng này vì nó góp phần quan trọng vào việc tổ chức xã hội, đảm bảo trật tự cơ cấu từ gia đình, dòng tộc cho đến quốc gia. Nhưng nguyên nhân sâu xa bởi tín ngưỡng bản địa này đã tiếp biến và phát triển phong phú trong mảnh đất Nho giáo. Đạo hiếu-tư tưởng cốt lõi trong hệ thống luân lý Nho giáo đã góp phần bảo tồn và thăng hoa giá trị sự sống, bản sắc của nền văn hóa bản địa. Một sự dung hợp hiếm thấy. Chính yếu tố này giúp Nho giáo ngày càng bám sâu và ảnh hưởng cách mạnh mẽ trên đời sống tinh thần và thiết chế xã hội Việt Nam trong hơn 1800 năm.
 

2. Đạo Hiếu của Nho giáo-nhân tố bảo tồn và phát triển giá trị sự sống của văn hóa bản địa


Nho giáo thiết chế xã hội dựa trên ba quan hệ căn bản theo chiều dọc gọi là “tam cương”, đó là vua-tôi, cha-con, chồng-vợ. Trong ba quan hệ đó, có hai quan hệ thuộc thiết chế gia đình, đó là cha-con, chồng-vợ. Vì vậy, tư tưởng Nho giáo xác định việc tề gia là điều kiện tiên quyết để có thể trị quốc. Thiết chế gia đình thuộc lĩnh vực gia quy, còn quan hệ vua-tôi thuộc quy phạm quốc pháp. Sự thống nhất giữa nhà và nước cần thiết như thế nào thì sự thống nhất giữa quy và pháp cũng cần thiết như vậy. Vì vậy, để xây dựng thiết chế gia đình ổn định, Nho giáo đề cao đạo hiếu như nền tảng bảo đảm sự ổn định xã hội.

Về phương diện chiết tự, theo các nhà khảo cứu văn tự cổ của Trung Quốc thì chữ “Hiếu” kết cấu theo thể loại hội ý,[18] nghĩa là chữ viết phản ánh một quan niệm xã hội. Phía trên chữ hiếu là hình tượng nam nữ giao phối, phía dưới là chữ tử-con người, tượng trưng cho sự sống phát sinh từ hành vi tính giao nam nữ. Như vậy ngay trong ý nghĩa từ ngữ, chữ hiếu đã bao hàm ý niệm về sự sống trong tâm thức của người xưa, một sự hòa điệu ngẫu nhiên giữa đạo hiếu của Nho giáo với tín ngưỡng phồn thực bản địa liên quan đến ý thức tôn trọng sự sống.

± Tôn trọng sự sống-giá trị luân lý Nho giáo

Khổng Tử nói: “Chặt một cái cây, giết một con thú không đúng thời điểm, như vậy không thể gọi là hiếu được”-(đoạn nhất thụ, sát nhất thú, bất dĩ kì thời, phi hiếu dã). Đối với Nho giáo, đạo đức lớn nhất chính là sự sống (đại đức viết sinh). Không chỉ những hành vi can thiệp hay phá hoại sự sống mới bị xem là “bất hiếu” mà ngay cả những hành vi không tiếp tục tạo ra sự sống cũng bị quy gán vào tội “bất hiếu.” “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” - “Có ba điều bất hiếu, điều bất hiếu lớn nhất là không tạo sinh, duy trì nòi giống.”[19]

“Thận chung, truy viễn” – “kính nhớ tổ tiên và duy trì sự sống qua việc tạo sinh” là lẽ sống bất di dịch của đạo đức Nho giáo, chi phối và ảnh hưởng mạnh mẽ mọi thiết chế gia đình thời xưa. Cúng bái tổ tiên là hiện tượng ít nhiều liên quan đến tín ngưỡng phồn thực. Hạt giống tín ngưỡng phồn thực ở những mảnh đất khác nhau mọc thành những cây khác nhau.[20] Khi du nhập vào Việt Nam, chính Nho giáo đã khoác lên tín ngưỡng phồn thực bản địa một hệ nguyên lý, một cơ cấu nghi thức, phẩm trật khiến cho tín ngưỡng này mang nặng tính xã hội hơn tính tôn giáo. Cúng bái tổ tiên là biểu hiện bên ngoài của tinh thần hiếu để. Đạo hiếu trở thành giá trị đạo đức vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hội. Mang tính tự nhiên vì tạo sinh và duy trì sự sống là đặc tính căn bản của đạo hiếu. Nhưng trong cơ cấu xã hội vẫn có những ngăn trở về mặt đạo đức như trong thời gian để tang bố mẹ, người con không được quan hệ tính giao nam nữ, đó là hiếu tử.

± Đạo hiếu-nhân tố bảo tồn sự sống trong văn hóa bản địa

Đạo hiếu trong luân lý Nho giáo bao hàm cả ba nghĩa: cúng bái để tỏ lòng tưởng nhớ tổ tiên, sinh con đẻ cái để kế tục giống nòi, phụng dưỡng và kính trọng cha mẹ.[21] Văn hóa chữ “Hiếu” của phương Đông dựa trên quan hệ huyết thống ăn sâu bám rễ từ nghìn đời và vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Ý thức quan hệ huyết thống là biểu hiện cụ thể của tâm thức kính ngưỡng sự sống, một giá trị văn hóa phương Đông nói chung và là một bản sắc của văn hóa Việt Nam nói riêng. Chính sự tương đồng này là nguyên nhân lý giải về sự dung hợp văn hóa giữa Nho giáo và văn hóa truyền thống Việt Nam. Nho giáo trở thành nhân tố góp phần bảo tồn và phát triển những giá trị sự sống trong văn hóa bản địa. Hiện tượng này cũng xảy ra tương tự đối với Phật giáo và Đạo giáo khi du nhập vào Việt Nam. Phật giáo từ Ấn Độ không xem “đạo hiếu” là nền tảng đạo đức. Quan niệm đạo đức của Phật giáo Ấn Độ khác về cơ bản với quan niệm đạo đức Nho giáo ở chỗ “cảnh giới đạo đức cao nhất là đạo đức ngược lại với đạo đức thế tục.”[22] Chữ “hiếu” của Nho giáo thuộc văn hóa trần tục, còn đạo đức của Phật giáo thuộc văn hóa siêu trần tục. Phật giáo tuy cũng đề cập đến Tứ Ân,[23] trong đó báo ân cha mẹ được đặt ở hàng đầu, nhưng ân và báo ân của Phật giáo không tương đồng về nội dung với hiếu và báo hiếu của Nho giáo. Nhưng khi du nhập vào Việt Nam, đạo lý hiếu nghĩa của Nho giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ trên giáo lý Phật Giáo tại Việt Nam. Vì vậy, thật không lạ khi chỉ có Phật Giáo Việt Nam có kinh Vu Lan, còn được gọi là Hiếu Kinh Phật Giáo hay kinh Phụ Mẫu Ân Trọng, một kinh Phật không hề có trong hệ thống kinh điển Phật Giáo Ấn Độ. Điều này cho ta thấy, đạo Hiếu đã chi phối các giá trị văn hóa mạnh mẽ như thế nào.

Sách Hiếu kinh được phương Tây gọi là Kinh Thánh của phương Đông đã hệ thống hoá những hành vi đạo đức như những chuẩn mực về đạo hiếu: “Hiếu là cái gốc của đạo đức, giáo hóa bắt đầu mà ra”- (phù hiếu, đức chi bản dã, giáo chi sở do sinh dã).[24]

“Việc đầu tiên của đạo hiếu của đạo Hiếu là không được hủy hoại thể xác, da tóc do cha mẹ sinh ra. việc cuối cùng của chữ Hiếu là thực hành đạo lý, làm nên sự nghiệp lưu danh hậu thế, vẻ vang cho cha mẹ” – “Thân thể phát phu, thọ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chi thủy dã. Lập thân hành đạo danh ư hậu thế, dĩ hiển phụ mẫu, hiếu chi trung dã.”[25] Đạo “Hiếu” theo luân lý Nho giáo không chỉ giới hạn ở hành vi phụng dưỡng, tôn kính cha mẹ khi còn sống hay trách nhiệm thờ kính khi cha mẹ đã khuất. Đạo hiếu thể hiện ngay trong thái độ tôn trọng những giá trị sự sống nơi bản thân “không hủy hoại thể xác, da tóc do cha mẹ sinh ra.” Sự sống con người là kết quả giao hòa trời-đất, là hội tụ khí huyết của bậc sinh thành. Vì vậy, tự bản chất, sự sống là giá trị thánh thiêng bất khả xâm phạm. Tôn trọng sự sống của chính mình và người khác là biểu hiện tinh thần hiếu để Nho giáo.

Sách Thuyết Văn đã tóm lược giá trị tinh túy của đạo hiếu Nho giáo: “Thờ mẹ, kính cha trọn đạo” (thiện sự phụ mẫu). Trọn đạo ở đây khái quát thành bốn chữ: “dưỡng” (nuôi nấng), “kính” (thái độ kính trọng), “gián” (can gián những điều sai), “thuận” (không làm phật lòng, trái ý cha mẹ). Nho giáo xem chữ “hiếu” là nền tảng của đạo đức nhân ái, hay nói cách khác, toàn bộ kiến trúc Nho giáo được xây dựng trên nền tảng chữ “hiếu”. Chính trị có vững vàng hay không phụ thuộc vào đạo đức, đạo đức có ổn định hay không phụ thuộc vào chữ hiếu: “Người quân tử phải giữ lấy cái gốc, gốc vững thì đạo lý tự khắc hình thành. Cho nên hiếu đễ chính là cái gốc của học thuyết nhân” – “Quân tử vụ bản, bản lập nhi đạo sinh. Hiếu để giả kì vi nhân chi bản dư”.

Đạo hiếu Nho giáo vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính xã hội. Về mặt xã hội, là chỗ dựa vững chắc của thể chế chính trị phong kiến. Vì vậy, chế độ phong kiến càng lỗi thời thì nội dung của chữ hiếu càng lạc hậu và bảo thủ, theo kiểu ngu hiếu, ngu trung. Khi đó, nó tước đoạt giá trị nhân văn vốn có là lòng kính ngưỡng và tôn trọng sự sống. Có thể, tư tưởng Nho giáo nặng về cơ cấu, hình thức tổ chức nên đôi lúc làm phai mờ nét đặc trưng tự nhiên của đạo hiếu là tâm thức kính ngưỡng sự sống “hiếu sinh, ố tử”. Vì vậy, trong bài viết này, tôi muốn bứt phá khỏi cái nhìn phiến diện mang tính xã hội của Nho giáo, để trở về nguồn tìm lại những nét nhân văn trong tinh thần hiếu đễ Nho giáo, một mảnh đất màu mỡ đã nuôi dưỡng, bảo tồn và phát triển những giá trị sự sống của nền văn hóa bản địa. Chính Nho giáo là một trong những nhân tố góp phần định hình bản sắc văn hóa Việt Nam. Viên ngọc được mài giũa đã lộ rõ những đường nét sắc sảo. Nhưng những đường nét này ngày càng tinh xảo hơn khi một lần nữa, văn hóa Việt Nam trải qua quá trình tiếp biến với văn hóa Tây phương, cụ thể là văn hóa Kitô giáo vào những năm đầu thế kỷ XVI. Về mặt xã hội, đây là một cuộc hội nhập không thành công. Nhưng nhìn từ khía cạnh đạo đức, chính nền tảng luân lý Kitô giáo về nhân vị, tự do và phẩm giá con người đã góp phần củng cố giá trị sự sống trong bản sắc văn hóa Việt Nam.

Kết luận


Dân tộc Việt Nam ngay từ khởi thủy đã ý thức tìm về nguyên ủy sự sống, nguồn cội phát sinh dân tộc. Các thị tộc mẫu hệ thời sơ khai tôn thờ vật tổ như nguồn cội phát sinh dân tộc. Truyền thuyết cha Rồng-mẹ Chim của người Việt cổ phản ánh rõ nét tín ngưỡng này. Đến thời kỳ tiếp biến văn hóa Trung Hoa, chính Nho giáo là nhân tố định hình và phát triển tín ngưỡng bản địa thành hệ thống đạo lý chi phối đời sống xã hội và tinh thần dân tộc Việt Nam. Từ yếu tố văn hóa ngoại lai, Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo dần hội nhập và tiếp biến để trở thành những bản sắc văn hóa của dân tộc. Đến đầu thế kỷ XVI, văn hóa Kitô giáo theo chân các nhà truyền giáo du nhập vào Việt Nam nhưng cơ cấu phục vụ công cuộc loan báo Tin Mừng quá nặng nét phương Tây không thể dung hòa với văn hóa bản địa, cụ thể về vấn đề thờ kính tổ tiên. Trong lịch sử Giáo Hội, chưa có vấn đề nào gây tranh luận kéo dài như vấn đề này, từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII (1631-1742), qua 10 đời giáo hoàng làm ảnh hưởng sâu rộng đến các xứ truyền giáo. Đặc biệt với tông chiếu “Ex Quo Singulari” (1742) của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIV cấm hình thức lễ nghi tôn kính tổ tiên, đã làm tổn thương tinh thần trọng đạo hiếu-trung của dân tộc.

Đối với người Việt Nam, tôn kính tổ tiên là một trách nhiệm thiêng liêng của đạo làm con, một hình thức tín ngưỡng phản ánh tâm thức tôn giáo của tâm hồn Việt về vũ trụ và con người: Sự sống tiếp nối và dường như không có sự khác biệt giữa hai lãnh giới sống-chết, cái chết chỉ là một dạng sống mới. Như vậy, tự trong tâm thức, người Việt Nam vẫn luôn khát vọng hướng đến một sự sống viên mãn nơi thế giới vô hình. Tất cả những hình thức tín ngưỡng, tôn giáo bản địa đều chỉ nhằm thỏa mãn khát vọng sâu xa này. Và đây chính là điểm nối kết để Tin Mừng Sự Sống Kitô giáo có thể hội nhập vào bản sắc văn hóa và tâm hồn dân tộc Việt Nam. Bằng nền tảng giáo lý của mình, Kitô giáo có thể trả lời cho câu hỏi về nguyên ủy sự sống bằng một thực tại cụ thể, mang tính ngôi vị là chính Đức Kitô. Lòng kính ngưỡng sự sống của dân tộc Việt Nam phản ánh qua tâm thức thần hóa, khám phá nguyên ủy sự sống nơi những thực tại bên ngoài mà bỏ quên giá trị sự sống mang tính nhân vị. Và đây là điểm khiếm khuyết mà Kitô giáo có thể bổ khuyết, củng cố và phát triển. Tin Mừng Sự Sống Kitô giáo với trung tâm điểm là Đức Kitô-Lời ban Sự Sống sẽ là nền tảng luân lý định hướng cho việc tôn trọng phẩm giá, nhân vị và sự sống con người trong xã hội Việt Nam hôm nay.

Với lối tiếp cận theo tiến trình lịch sử nhằm trình bày một cái nhìn tổng quát về giá trị sự sống trong văn hóa Việt Nam. Một biểu tượng, một nét đẹp, một bản sắc, tất cả chỉ nhằm hướng đến làm rõ chủ đề: Việt Nam-một dân tộc yêu sự sống. Sự sống là thực tại vốn gắn liền với những cư dân nông nghiệp cả cuộc đời hòa điệu với thiên nhiên. Sự sống là mẹ đất, là sông núi, là những gì gần gũi, gắn bó với con người. Sự sống là hòa điệu âm dương, là hội tụ nguyên khí đất trời. Sự sống là điểm nối kết giữa thực tại hữu hình và thế giới vô hình. Sự sống là quà tặng của Đấng Tạo Hóa, là cùng đích viên mãn của ý nghĩa hiện hữu. Chuỗi kết nối liên tục phản ánh tâm thức kính ngưỡng sâu xa đối với sự sống trong bản sắc văn hóa Việt Nam từ tín ngưỡng bản địa đến các giá trị văn hóa ngoại lai, từ tín ngưỡng vật tổ sơ khai đến giá trị văn hóa Kitô giáo rực rỡ. Nhưng hôm nay giá trị đó đang bị đe dọa bởi những nỗ lực thao túng sự sống con người bằng các lý lẽ biện minh khác nhau. Thực trạng đó đang làm tổn thương tâm thức kính ngưỡng sự sống trong bản sắc văn hóa Việt Nam và mời gọi nỗ lực dấn thân của người Kitô hữu trong trách nhiệm bảo vệ sự sống con người.

[1] Trích lược nội dung sứ điệp của Liên Hội đồng Giám mục A Châu họp tại Deajon, Hàn Quốc, từ ngày 17 đến 23 tháng 08 năm 2004.
[2] Hiến chương Quyền gia đình do Tòa Thánh công bố: báo Osservatore Romano, 25-11-1983.
[3] Ngô Đức Thịnh chủ biên, Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam (Hà Nội: Khoa Học Xã Hội, 2001), tr. 28.
[4] Ngô Đức Thịnh chủ biên, Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam (Hà Nội: Khoa Học Xã Hội, 2001), tr. 344.
[5] Điển tích: ông Đùng, bà Đà là hai chị em. Họ đã lớn tuổi mà vẫn chưa nên vợ nên chồng. Một hôm, cả hai nảy ra ý định đi quanh núi nếu gặp ai sẽ nên vợ nên chồng, nhưng đi mãi vẫn không gặp được người nào, nên cuối cùng họ đành kết duyên vợ chồng. Điển tích này diễn xướng vào ban đêm tái diễn những hình phạt của nhà vua vì tội loạn luân, một biểu hiện cụ thể của luân lý Nho giáo
[6] Tôcarép, Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát tiển của chúng (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 1994), tr. 34.
[7] Lễ hội múa Mo khai hội ngày 6 tháng 2 âm lịch tại Sơn Đông (Hà Tây). Vật dâng cúng gồm báng dầy và bánh cuốn, biểu tượng sinh thực khí nam và nữ. Sau nghi lễ phồn thực, một người tung khúc tre và mo cau để mọi người tranh cướp lấy may, còn bành dầy bánh cuốn thì đem biếu các làng lân cận. Sau đêm hội, trong ba tháng xuân trai gái được tự do luyến ái mà không bị phạt vạ theo lệ làng.
[8] Lễ hội bắt chạch trong chum khai hội mồng 6 tháng Giêng tại làng Văn Trưng (Vĩng Phúc) với trò chơi đầy tính phồn thực, trai gai vừa ôm nhau vừa bắt trạch trong chum. Ban giám khảo là các bô lão có nhiệm vụ quan sát các đôi trai gái cho họ cùng nhau phải làm được hai việc một lúc: vừa đùa nghịch, vừa cùng nhau bắt chạch.
[9]Đông Phong, Về nguồn bản sắc dân tộc (TPHCM: Thành Phố Hồ Chí Minh, 2001), tr.21.
[10] L. Cadierre, Về văn hóa và tín ngưỡng truyền thống của người Việt (Hà Nội: Văn Hóa Thông Tin, 1997), tr. 40.
[11] Đặng Nghiêm Vạn, Điểm qua tình hình tôn giáo hiện nay (Hà Nội: Khoa Học Xã Hội, 1994), tr. 43.
[12] Toan Anh, Nếp cũ-tín ngưỡng Việt Nam (TPHCM: Thành Phố Hồ Chí Minh, 1992), tr. 23-24.
[13] L. Cadierre, Về văn hóa và tín ngưỡng truyền thống của người Việt (Hà Nội: Văn Hóa Thông Tin, 1997), tr. 40.
[14] Insun Yu, Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII (Hà Nội: Khoa Học Xã Hội, 1994), tr.100.
[15] Ngô Đức Thịnh chủ biên, Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam (Hà Nội: Khoa Học Xã Hội, 2001), tr. 54.
[16] Hà Thúc Minh, “Nho giáo-vấn đề lý luận và thực tiễn,” tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4 (2005): tr. 3.
[17] Đại Nam nhất thống chí, tập I (Hà Nội: Khoa Học Xã Hội, 1971), tr. 116.
[18] Trung Hoa hiếu văn hóa chuyên tập, bản Việt ngữ Nguồn gốc chữ “Hiếu” và giá trị hiện đại, Trương Lệ Hồng dịch (Ngũ Châu văn minh, 2004), tr. 71.
[19] Trần Trọng Sâm biên dịch, Luận ngữ viên ngọc quý trong kho tàng văn hóa phương đông, Hà Nội: NXB Văn Hóa Thông Tin, 2002, chương Dương Hóa.
[20] Hà Thúc Minh, “Chữ “Hiếu” từ tín ngưỡng phồn thực cổ xưa đến đạo đức văn minh hiện đại,” Nghiên cứu Tôn giáo, số 4 (2005): tr. 4.
[21] Hà Thúc Minh, “Chữ “Hiếu” từ tín ngưỡng phồn thực cổ xưa đến đạo đức văn minh hiện đại,” Nghiên cứu Tôn giáo, số 4 (2005): tr. 5.
[22] Kỳ Chí Tường, Phật học và văn hóa Trung Quốc (Học Lâm xuất bản xã, 2000), tr. 355.
[23] X. Kinh Tâm Địa Quán, quyển 2, Tứ An gồm ân cha mẹ, ân quân vương, ân chúng sinh và ân Tam bảo.
[24] Bản Việt ngữ Lễ ký-kinh điển về việc Lễ, Nhữ Nguyên biên soạn (Đồng Nai, 1996), tr. 237.
[25] Sđd, tr. 238.