Thời sự Thần học – Số 87, tháng 2/2020, tr. 160-185.
_ Enrique Castillo Corrales_
Tác giả là linh mục, giáo sư đại học Javeriana, Colombia. Bài viết trình bày Giáo huấn của Giáo hội phổ quát và của các Giám mục Mỹ châu Latinh trong khuôn khổ chuẩn bị Đại hội các giám mục của lục địa này tại Aparecida năm 2007. Ban biên tập chỉ giới hạn vào những văn kiện có liên quan đến Giáo hội phổ quát.Nguồn: La doctrina actual de la Iglesia acerca de lo político, in: “Theologica Xaveriana” 158 (2006) 229-256.
Chúng tôi không muốn trình bày tất cả Giáo huấn xã hội liên quan đến vấn đề chính trị xưa nay[1], nhưng chỉ giới hạn vào những văn kiện gần đây:
1/ Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo (11/10/1992)
2/ Ghi chú đạo lý về việc dấn thân của người Công giáo vào đời sống chính trị, của Bộ Giáo lý đức tin (24/11/2002)
3/ Tóm lược Học thuyết xã hội của Giáo hội, do Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình (2/4/2004) biên soạn
4/ Bản toát yếu Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo (28/6/2005)
5/ Thông điệp Deus caritas est của ĐGH Bênêđictô XVI (25/12/2005)Viết tắt. GLCG = Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo. TLHT = Tóm lược Học thuyết xã hội của Giáo hội.
I. Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo
Chúng ta có thể tóm tắt đạo lý của sách GLCG về chính trị vào bốn vấn đề thần học:
1/ Nhân luận thần học. Hai lời khẳng định: a) việc loan báo Tin Mừng cần phải nhắm đến toàn thể bản chất con người, trong đó gồm cả chiều kích chính trị[2]; b) bản tính ấy đã bị “tổn thương” do tội lỗi[3].
2/ Kitô học, với hai điểm bổ túc cho nhau: a) nhớ rằng nhiều người đương thời với Đức Giêsu đã có một quan niệm trần tục về Đấng Mêsia (x. Mt 22,41-46) mang bản chất chính trị (x. GLCG 439); b) việc kết án Đức Giêsu có pha lẫn động lực chính trị, bởi vì Thượng Hội Đồng nộp Đức Giêsu cho người Rôma với lời tố cáo về tội gây rối chính trị (x. Lc 23,2), được đặt ngang với ông Baraba can tội bạo động (Lc 23,19). Các thượng tế cũng sử dụng những đe dọa chính trị để làm áp lực buộc ông Philatô kết án Đức Giêsu (x. Ga 19,12.15-21) (x. GLCG 596).
3/ Giáo hội học. Dân Thiên Chúa có những đặc trưng khác với tất cả các nhóm chính trị trong lịch sử, cũng như tất cả các nhóm tôn giáo, dân tộc và văn hóa khác (x. GLCG 782).
4/ Giáo luật. Dựa trên Công đồng Vaticanô II (Gaudium et spes, số 76) và thông điệp Centesimus annus (số 45 và 46), sách GLCG khẳng định rằng “sứ mạng và thẩm quyền của Giáo hội không thể nào lẫn lộn với cộng đồng chính trị” (số 2245). “Hội thánh có sứ vụ đưa ra phán đoán luân lý, cả trong những vấn đề liên quan tới lãnh vực chính trị, khi các quyền lợi căn bản của con người hay ơn cứu độ các linh hồn đòi hỏi, bằng cách sử dụng mọi phương tiện và chỉ những phương tiện nào phù hợp với Tin Mừng và hòa hợp với lợi ích của mọi người, tùy theo các thời đại và hoàn cảnh khác nhau” (GLCG 2246; trích dẫn Gaudium et spes, số 76e).
Mặt khác, sách GLCG đưa ra ít là sáu tiêu chuẩn mục vụ liên quan đến hoạt động chính trị, mà chúng ta có thể tóm lại như sau:
1/ Vai trò của giáo dân. Các giáo dân có quyền lợi và sáng kiến để khám phá và phát minh ra những phương tiện khác nhau để “thấm nhập” đời sống chính trị phù hợp với những đòi hỏi của đạo lý và đời sống Kitô giáo (số 899). Điều này bao hàm quyền lợi được tạo ra những hiệp hội và tổ chức tư lập (số 1882) mang tính chính trị, ở trong mỗi quốc gia cũng như trên bình diện toàn cầu. Điều này có nghĩa là các giáo dân được thúc giục thành lập các đảng phái và phong trào chính trị. Về điểm này, sách GLCG nhấn mạnh đến trách nhiệm và sự tham gia của mỗi người tùy theo địa vị và vai trò đang đảm nhận (số 1913), nghĩa là “với trách nhiệm cá nhân” (số 1914). Điều này có nghĩa là các giáo dân được mời gọi tham gia tích cực vào đời sống công, theo những cách thức khác nhau tùy nơi (số 1915).
2/ Về việc thi hành quyền bính. Sách GLCG cho rằng những khác biệt về thể chế chính trị là điều có thể chấp nhận được, “miễn là các thể chế này phục vụ lợi ích chính đáng của cộng đồng đã thừa nhận chúng” (số 1901). Chính quyền không được xử sự cách chuyên chế, không được ban hành những luật bất công (số 1902). Sách GLCG cũng nhìn nhận có những đe dọa cho nền tự do, và ghi nhận rằng, “những điều kiện về trật tự kinh tế và xã hội, chính trị và văn hóa cần thiết để thực thi tự do cách chính đáng, rất thường không được biết tới và bị vi phạm” (số 1740). Vì thế, theo thông điệp Centesimus annus (số 44), cần có sự cân bằng giữa các quyền lực trong tổ chức hiến pháp của mỗi quốc gia (GLCG số 1904).
Cuối cùng, “quyền bính chính trị có nghĩa vụ tôn trọng những quyền lợi căn bản của con người” (số 2237), và bảo đảm cho “những quyền lợi chính trị gắn liền với tư cách công dân … được công nhận theo các đòi hỏi của công ích” (ibidem). Mặt khác, sách GLCG nhìn nhận rằng “chính quyền có quyền lợi và bổn phận phải điều hợp việc thi hành quyền tư hữu sao cho phù hợp với công ích (số 2406. Điều này dựa trên đạo lý của Công đồng Vaticanô II (Gaudium et spes, số 71d) và các thông điệp Sollicitudo rei sociales (số 42) và Centesimus annus (số 40 và 48). Nhà nước cũng có trách nhiệm trong hoạt động kinh tế, và cụ thể, đối với vấn đề lao động (GLCG số 2431), dựa trên giáo huấn của thông điệp Centesimus annus (số 48).
3/ Công ích. Công ích được hiểu trong tương quan với nhân vị (GLCG số 1905) và được định nghĩa dựa theo Công đồng Vaticanô II (Gaudium et spes số 26a và 74a). Công ích bao hàm ba yếu tố: tôn trọng nhân vị đúng nghĩa; đòi hỏi sự thịnh vượng xã hội và sự phát triển; hòa bình (GLCG số 1906-1909). Công ích được thực hiện cách trọn vẹn hơn cả trong cộng đồng chính trị (số 1910), và cũng mang theo một chiều kích hoàn cầu (số 1911). Nói cho cùng, công ích phải nhắm tới sự thăng tiến con người, được đặt nền trong chân lý, được xây dựng trên công bằng, được sinh động nhờ tình yêu (số 1912). Liên quan đến công ích, sách GLCG nhắc lại đạo lý của thánh Tôma Aquinô, đó là lề luật phải phù hợp với lẽ phải (số 1902, trích dẫn Summa Theologiae I-II, q.93, a.3 ad 2).
4/ Liên quan đến việc thực hành hoạt động chính trị, sách GLCG nhắc nhở các công dân về các nghĩa vụ yêu tổ quốc (số 2239), phục tùng chính quyền, bao gồm cả việc cầu nguyện cho họ (số 2240). Điều này có nghĩa là hoạt động chính trị một cách có trách nhiệm (số 1915). Các thành viên xã hội cũng có nghĩa vụ hối cải không ngừng, phải kết án nghiêm ngặt sự gian lận và những mánh lới khác (số 1916). Đối lại, trong mọi hoạt động chính trị, những người đang nắm giữ quyền bính có bổn phận khẳng định các giá trị đem lại sự tín nhiệm của các thành viên trong tập thể (số 1917).
5/ Về “vấn nạn lương tâm”. Đứng trước những luật bất công, Giáo hội, theo tiêu chuẩn do thánh Phêrô đưa ra trước mặt Thượng Hội đồng (Cv 4,19-20), đòi hỏi quyền được bất tuân hành dựa theo lương tâm (số 2242). Hơn thế nữa, sách GLCG vẫn chấp nhận quyền phản kháng bạo quyền, theo ngôn ngữ của thần học kinh viện, chống lại sự áp bức, miễn là hội đủ 5 điều kiện đã được đặt ra[4].
6/ Tôn trọng tự do tín ngưỡng. Theo tuyên ngôn Dignitatis humanae
của Công đồng Vaticanô II (số 2), tự do tín ngưỡng không có nghĩa là được phép
đi theo sự sai lầm[5], lại càng không thể nhìn nhận cho sự sai lầm cũng có quyền lợi[6], nhưng là một quyền lợi tự nhiên của nhân vị được hưởng tự do dân sự trong
phạm vi tín ngưỡng, nghĩa là không bị cưỡng bách từ bên ngoài, trong những giới
hạn chính đáng, về phía chính quyền. Quyền lợi tự nhiên cần được nhìn nhận trong
hệ thống pháp luật của xã hội ngõ hầu trở thành một quyền lợi công dân (GLCG số
2108). Tự nó, quyền này không thể nào là vô giới hạn, cũng không được quan niệm
theo chủ nghĩa duy thực nghiệm (số 2109).
II. Bản ghi chú đạo lý của Bộ giáo lý đức tin
Về một số vấn đề liên quan đến việc tham gia của người công giáo vào đời sống chính trị.[7]
Bản ghi chú này tiên vàn hướng đến các giám mục, kế đến là các nhà chính trị công giáo, và thứ ba là tất cả các giáo dân công giáo “được mời gọi tham gia vào đời sống công và chính trị trong các xã hội dân chủ” (lời dẫn đầu).
Văn kiện mở đầu với lời khẳng định rằng, việc dấn thân chính trị của người Kitô hữu là một chuyện thường hằng trong lịch sử ngay từ cổ thời, như chứng từ của Bức thư gửi ông Diognetus; điều này được ĐGH Gioan Phaolô II phê chuẩn khi tôn thánh Thomas More làm bổn mạng những người cầm quyền và chính trị gia, và đã tuyên bố rõ ràng trong tông huấn Christifideles laici (Số 42).
Sự tham gia này mang tính cách khẩn trương trong các xã hội dân chủ; tuy nhiên, tại nhiều nơi, có những trường hợp phức tạp, vì thế Bộ Giáo lý Đức tin xét thấy thích hợp khi xuất bản Ghi chú này, dựa theo sách GLCG (x. số 1), và tập trung vào vài điểm hiện đang gây tranh cãi với các chủ trương của thuyết tương đối văn hóa và đa nguyên luân lý (số 2). Những chủ trương này chẳng liên quan gì đến “tự do hợp pháp mà các công dân Công giáo trong việc chọn lựa những đường hướng chính trị có thể hòa hợp với đức tin và luật luân lý tự nhiên” (số 3). Giáo hội không có nhiệm vụ đề nghị một giải pháp duy nhất có thể coi là chấp nhận được cho các vấn đề thế tục mà Thiên Chúa đã để cho mỗi người tự quyết định dựa theo sự phán đoán tự do và trách nhiệm của mình. Tuy nhiên, Hội thánh có quyền và bổn phận cung cấp một sự phán xét về mặt luân lý cho các vấn đề trần thế khi đức tin và luật luân lý đòi hỏi.
Lương tâm Kitô hữu được đào tạo sẽ không cho phép ủng hộ bất cứ chương trình chính trị hoặc luật lệ “chứa đựng những đề nghị trái nghịch với nội dung căn bản của đức tin và luân lý” (số 4). Trong số các điểm ấy, văn kiện kể ra những lập trường không thể nào chấp nhận được: phá thai, an tử, những hình thức nô lệ mới; trái lại, người tín hữu phải cổ vũ sự bảo vệ bào thai, gia đình, giáo dục con cái, bảo vệ trẻ vị thành niên, kinh tế và hòa bình, tẩy chay bạo lực và khủng bố (ibidem).
Văn kiện chứa đựng một phụ lục về sự tự trị (laicidad): quan niệm
này được hiểu như sự tự trị của lãnh vực dân sự và chính trị khỏi lãnh vực tôn
giáo và giáo dục, chứ không hiểu như là tự trị về luân lý. Tự trị là một giá trị
được Giáo hội nhìn nhận, nhưng điều này không có nghĩa là loại bỏ Kitô giáo khỏi
các cuộc thảo luận (số 6).
III. Tóm lược Học thuyết xã hội của Giáo hội
Sách Tóm lược này đề cập đến vấn đề chính trị rộng hơn cả. Ngay từ số đầu tiên, văn kiện trích dẫn thông điệp Redemptoris missio (số 11) nói đến nguyên tắc thần học căn bản của “ơn cứu độ toàn diện, bao trùm toàn thể con người và toàn thể mọi người” (TLHT số 1). Nguyên tắc này thấm nhuần toàn bộ giáo huấn xã hội của Giáo hội, “muốn cống hiến một cái nhìn toàn diện và một sự hiểu biết đầy đủ về con người” (TLHT số 522), và đương nhiên là bao hàm vấn đề chính trị. Nguyên tắc thần học căn bản vừa nói được bổ túc bởi tiêu chuẩn nhân luận thần học về bản tính sa ngã của con người (TLHT số 27).
Việc trình bày tư tưởng Kinh Thánh như là nền tảng của học thuyết xã hội bao gồm một cuộc học hỏi Cựu Ước về ý nghĩa của giao ước, liên quan đến đời sống chính trị của Israel (số 24), và bước sang Tân Ước, về tương quan của Chúa Giêsu với nhà cầm quyền chính trị đương thời, cũng như loại trừ ý tưởng về Đấng Mêsia chính trị (số 379). Sách TLHT cũng nghiên cứu về ý nghĩa của Vương triều Thiên Chúa trong tương quan với đời sống chính trị để tách rời hai khái niệm, và nhấn mạnh “Vương triều Thiên Chúa không thể nào nắm bắt được từ viễn ảnh của một tổ chức chính trị nào cụ thể và nhất định; nhưng nó được tỏ hiện nơi sự phát triển một ý thức sống chung xã hội của con người, như một chất men làm cho con người được phát triển trọn vẹn, sống công bằng và liên đới, cởi mở với cõi Siêu việt như là điểm quy chiếu cho sự thành tựu đầy đủ của bản thân” (số 51).
Dưới khía cạnh thần học, sách TLHT đã xác định ba mối tương quan cần được học hỏi chặt chẽ với nhau:
1/ Giữa đức tin và thực tại chính trị, dựa trên nguyên tắc là “đức tin không chủ trương giam hãm các thực tại chính trị và xã hội vốn luôn thay đổi trong một khuôn khổ đóng kín”[8]; trái lại, “đức tin là men của sự thay đổi và sáng tạo”.[9]
2/ Giữa nhiệm cục cứu độ và chính trị, bởi vì Giáo hội muốn đem Tin Mừng như men trong xã hội nhân loại, cho nên chính trị không phải điều gì xa lạ đối với sứ điệp và nhiệm cục cứu độ”[10].
3/ Giữa Giáo hội và việc loan báo Tin Mừng cho chính trị. Giáo hội đòi hỏi quyền lợi (chứ không phải ân huệ) được loan báo Tin Mừng trong lãnh vực xã hội, bao gồm cả chính trị (số 70).
Dĩ nhiên, sách TLHT nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chính trị trong học thuyết xã hội của Giáo hội, và nhắc nhớ vai trò tiên phong của ĐGH Lêô XIII (số 521), rồi nêu bật tầm trọng của Công đồng Vaticanô II, đặc biệt khi phân tích những gì liên quan đến cộng đồng chính trị[11]; rồi đến huấn quyền của ĐGH Phaolô VI (số 99 và 100), huấn quyền xã hội của ĐGH Gioan Phaolô II, đặc biệt là thông điệp Centesimus annus (số 101-103).
Để tóm lại giáo huấn của sách TLHT về chính trị, chúng tôi xin gom lại vào 7 tiết mục, tất cả đều ít nhiều dựa trên 5 nguyên tắc của học thuyết xã hội của Hội thánh: công ích, các tài nguyên được dành cho mọi người, bổ trợ, tham gia và liên đới[12]; và ba chân lý nền tảng của đời sống xã hội: chân lý, tự do, công bình[13]. Bảy tiết mục đó như sau:
1. Nền tảng Kitô giáo của chính trị. Nền tảng này thuộc về nhân luận, đó là: phẩm giá con người. Con người không chỉ là cá thể (số 391), nhưng là một “bản tính có trí tuệ và tự do”[14], theo như tất cả các nguồn mạch của học thuyết xã hội của Hội thánh[15]. Chiều kích xã hội cũng nằm trong bản tính con người, nó là một yếu tố thiết yếu (số 384).
Từ đó, cần phải xem cộng đồng chính trị như là một thực tại “phù hợp với bản tính con người” và cần thiết để thực hiện công ích[16]. Việc nghiên cứu điểm nền tảng này đưa tới nghĩa vụ phải bảo vệ và thăng tiến các quyền lợi con người[17], và nó trở thành tiêu chuẩn để phê phán xem một cộng đồng chính trị có được đặt trên nền tảng vững chắc hay không (số 391).
2. Khía cạnh luân lý của tất cả mọi hành động chính trị. Thực hành chính trị không có mục đích nào khác ngoài việc chu toàn điều răn yêu thương, “cấu thành luật sống của dân Thiên Chúa”[18]. Luật yêu thương phải “gợi hứng, thanh lọc và nâng cao tất cả mọi tương quan giữa con người trong đời sống xã hội và chính trị” (số 33). Khía cạnh luân lý được sách TLHT đặt tên là “con đường bác ái”, giả thiết và vượt lên đức công bình (số 206). Nó giúp chúng ta yêu mến công ích, và tìm kiếm điều thiện hảo của tất cả mọi người, được nhìn không chỉ như là những cá nhân, mà còn trong chiều kích xã hội, nghĩa là chính trị, liên kết các cá nhân với nhau (số 207).
Từ đó, tất cả học thuyết xã hội của Hội thánh nhằm tới việc xây dựng một nền văn minh tình thương (số 575-583), và trong bối cảnh này, có thể nói đến “bác ái chính trị”[19] cần phải được mở rộng ra đến toàn thể nhân loại[20]. Khía cạnh luân lý này mang một tầm quan trọng đặc biệt cho mọi chính sách liên quan đến hiện tượng nghèo khổ dưới mọi hình thức[21].
3. Tương quan giữa Giáo hội và cộng đồng chính trị khởi đi từ việc nhìn nhận sự tự trị và lệ thuộc lẫn nhau[22], điều mà dưới góc độ lịch sử phải được xem như một sự chinh phục đặc thù của Kitô giáo (số 50).
Sự tự trị hỗ tương không kèm theo một sự tách biệt đến nỗi loại trừ sự hợp tác (số 425). Điều này hàm ngụ sự “nhìn nhận pháp lý sự hiện diện của Hội thánh, và sự tự do phát biểu, giảng dạy, loan báo Tin Mừng, thực hành việc phụng tự công khai, tự do tổ chức và điều hành nội bộ; tự do lựa chọn, đào tạo, bổ nhiệm, thuyên chuyển các nhân viên; tự do xây dựng các cơ sở tôn giáo; tự do thủ đắc và sở hữu những tài sản cần thiết cho hoạt động của mình; tự do lập hiệp hội không chỉ vì mục tiêu tôn giáo mà còn là giáo dục, văn hóa, sức khỏe và bác ái.”[23]
4. Vài nguyên tắc Kitô giáo cho mọi hành động chính trị. Giáo hội đi từ việc chấp nhận nguyên tắc thế tục (principio de laicidad) bao gồm việc Nhà nước tôn trọng các tôn giáo[24], nhưng không chấp nhận chủ trương duy thế tục (laicismo) bất khoan dung muốn gạt Giáo hội ra bên lề[25]. Vì thế Giáo hội nhìn nhận sự cần thiết của quyền bính chính trị (TLHT số 393) để bảo đảm một cuộc sống trật tự yên ổn cho cộng đồng trong việc tìm kiếm công ích[26].
Về phần mình, chính quyền phải thừa nhận rằng, chủ quyền thuộc về nhân dân, tuy nhiên chỉ duy sự thỏa thuận của nhân dân thì chưa đủ để việc hành sử quyền bính chính trị được coi là chính đáng (TLHT số 395).
Mặt khác, Kitô giáo nhấn mạnh rằng cộng đồng chính trị “đạt được chiều kích đích thực của mình nhờ biết tham khảo nhân dân” (TLHT số 385), nhưng hiểu rằng “nhân dân không phải là một đám đông không có hình thù, một quần chúng thụ động, dễ bị điều khiển và thao túng, nhưng là một tập thể những con người, trong đó người nào cũng có thể có ý kiến riêng về các vấn đề chung và được tự do bày tỏ những quan điểm chính trị riêng của mình, đồng thời tận dụng những ý kiến và quan điểm ấy để tìm lợi cho công ích”.[27]
Sau cùng, tuân theo một truyền thống được lãnh nhận từ các thánh Tông đồ, Giáo hội dạy rằng, các Kitô hữu có nghĩa vụ phục tùng chính quyền, không phải cách thụ động nhưng vì lý do lương tâm[28]; và cầu nguyện cho các nhà cầm quyền, ngay cả trong thời kỳ chịu bách hại[29].
5. Nhiệm vụ của Nhà nước và chính quyền. Giáo hội nhấn mạnh Nhà nước cũng như chính quyền hiện hữu là vì có trách nhiệm tìm kiếm công ích. Công ích được hiểu như là “điều tốt cho tất cả mọi người và cho toàn thể con người”[30], với những thay đổi tùy theo thời thế và nơi chốn (TLHT số 167-168), tuy vẫn luôn luôn bao hàm nghĩa vụ hòa hợp cách công bằng những ích lợi của các nhóm (số 169), và nhắm đến việc tạo ra một môi trường nhân sinh, trong đó các công dân có khả năng hành xử các quyền lợi của con người và thi hành các nghĩa vụ tương ứng (số 389). Cả hai nhiệm vụ này thường được chu toàn dễ dàng hơn trong một chính thể dân chủ[31].
Từ việc mưu cầu công ích, nảy sinh nhiều hệ luận mà chúng tôi chỉ kể ra vài thí dụ:
- Một chính sách kinh tế đúng đắn (số 352-355), điều này bao hàm việc kiểm soát tư sản phù hợp với nguyên tắc mục tiêu phổ quát của tài sản (số 176-181) và việc nhìn nhận cho hết mọi người được quyền lợi lao động[32];
- Một chính sách dân số phù hợp với phẩm giá con người (số 483);
- Một chính sách đúng đắn về các phương tiện truyền thông xã hội, không bị chi phối bởi ý thức hệ hoặc thương mại (số 416);
- Một chính sách mưu cầu hòa bình, với sự trợ giúp quốc tế, được phối hợp với việc mưu cầu phát triển, vượt lên trên sự kém phát triển (số 442, 448 và 449).
Một cách tương tự như vậy, chính quyền phải cố gắng diệt trừ mọi hình thức tham nhũng (số 411); kiểm soát chặt chẽ việc chi tiêu công (số 355); luôn luôn phải đi tìm hòa bình như là một giá trị của tất cả cộng đồng chính trị (số 495); luôn luôn phải hành động với đức khôn ngoan, thận trọng và can đảm[33]; cần tôn trọng nguyên tắc bổ trợ, trái ngược với các hình thức trung ương tập quyền, hình thức bàn giấy, quan liêu, cứu trợ an sinh, hiện diện phi lý và quá đáng của bộ máy Nhà nước (số 187), mặc dù “một vài hoàn cảnh đặc biệt ngoại thường có thể khuyến khích Nhà nước giữ vai trò bổ khuyết” (số 188).
Một vài điểm mang tầm quan trọng đặc biệt vào thời nay là nghĩa vụ của Nhà nước và công quyền phải bảo vệ gia đình và những giá trị của nó[34]; cổ võ cuộc đối thoại và hợp tác không những giữa cộng đồng Kitô giáo với cộng đồng dân sự và chính trị, mà cả giữa các giáo hội và tôn giáo với nhau (số 534-537) cũng như sự sống chung dựa trên tình bằng hữu dân sự (số 390-392). Điều này mang theo sự bảo đảm cho hoạt động tự do của các đảng phái (số 413), tự do thông tin chính trị (số 414), sự thay đổi nhiệm kỳ của các cấp lãnh đạo (số 189).
6. Vai trò khác biệt giữa giáo dân và giáo sĩ. Trong lãnh vực chính trị, tuy Giáo hội vẫn tuyên bố tất cả các Kitô hữu, không trừ một ai, “đều được kêu gọi trở thành chủ động của việc chứng tá chính trị” (số 538), nhưng cũng phân biệt vai trò của giáo sĩ và tu sĩ.
Vì thế sách TLHT trở lại nguyên tắc cho rằng, các giáo dân là những người phải đảm nhận cuộc dấn thân chính trị (số 531), phục vụ chính trị (số 565) và hoạt động chính trị (số 551, 555, 565, 567 và 573). Trái lại, hoạt động chính trị của các giám mục, linh mục và tu sĩ cần phải phù hợp với sự phục vụ Giáo hội, và cần hướng đến việc giảng dạy học thuyết xã hội của Giáo hội (số 539 và 540).
7. Vài hiện
tượng chính trị đáng được quan tâm đặc biệt. Có thể nêu lên 5 lãnh vực: a) vai
trò chính trị của cộng đồng quốc tế và của các tổ chức quốc tế (số 440-443); b)
vấn đề chính trị của hiện tượng toàn-cầu-hóa và lệ thuộc lẫn nhau[35]; c) vấn đề môi sinh[36]; d) tự do tôn giáo (số 421-423); e) việc cải cách điền địa (số 299-300).
IV. Bản Toát yếu sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo
Mặc dù Sách Toát Yếu (viết tắt TY) không chính thức nêu lên một câu hỏi nào về việc chính trị, nhưng chúng ta gặp lại ở đây tiêu chuẩn nhân luận thần học, nhắc lại tình trạng của bản tính của con người bị tổn thương vì tội lỗi (TY số 77). Sách TY cũng dành một chương cho “cộng đồng nhân loại”[37], trong đó chúng ta thấy một khẳng định khác của nhân luận thần học, đó là chiều kích xã hội là “phần cốt yếu” của bản tính cũng như của sứ mạng con người (TY số 401-402), và dĩ nhiên bao hàm lãnh vực chính trị.
Thật đáng tiếc khi sách TY không đả động đến khía cạnh chính trị trong câu hỏi về ý nghĩa “Mêsia” của Đức Giêsu (số 82), cũng như khi giải thích lý do kết án Người (số 113). Sách TY cũng không ghi nhận rằng dân Thiên Chúa khác biệt với các nhóm chính trị khác (số 154).
Đối lại, Sách TY giải thích khá tốt một tiêu chuẩn trong việc tổ chức chính trị, đó là “nguyên tắc bổ trợ” [38] và nhắc lại tầm quan trọng của “bác ái như là giới răn xã hội cao trọng nhất, bởi vì nó đòi hỏi và giúp thực hiện đức công bình” (TY số 404).
Sách TY có hai câu hỏi liên quan đến cách thức mà các Kitô hữu tham gia vào đời sống chính trị (TY số 464 và 519) và ba câu hỏi về quyền bính chính trị và việc thực thi nó cách hợp pháp (TY số 405-406), trong đó nhắc lại bốn tiêu chuẩn căn bản của chính trị:
1. Quyền của các giáo dân được can thiệp “trực tiếp vào đời sống chính trị và xã hội, thấm nhuần các thực tại trần thế với tinh thần Kitô giáo (TY số 519), tôn trọng chính quyền, yêu mến và phục vụ tổ quốc, thực thi quyền bầu cử và nộp thuế (TY số 464).
2. Bổn phận của nhà cầm quyền là luôn sử dụng các “phương tiện hợp pháp về mặt luân lý” (TY số 406), nghĩa là tránh những thủ đoạn gian dối.
3. Tôn trọng nguyên tắc Nhà nước pháp trị (ibidem).
4. Các Kitô hữu có quyền lợi được bất tuân dân sự hoặc nại đến vấn nạn lương tâm trước những luật bất công[39].
Ngoài ra, sách TY tóm tắt đạo lý cổ truyền về ba điểm có ảnh
hưởng đến chính trị: công ích (TY số 407-410), công bình xã hội (TY số 411-414),
và giá trị luân lý của học thuyết xã hội của Giáo hội (TY số 509-512).
V. Thông điệp Deus caritas est
Trong thông điệp đầu tiên của ĐGH Bênêđictô XVI bàn về đức bác ái trong đời sống của Giáo hội, phần thứ hai được dành để bàn đến chính trị. Sau khi đã ôn lại lịch sử của huấn quyền Giáo hoàng về học thuyết xã hội (số 27), và bàn đến sự dấn thân cho công bằng, thông điệp viết rằng “trật tự công bằng của xã hội và quốc gia là trọng trách chính của chính trị” (số 28). Điều này cần được hiểu trong cơ cấu nền tảng của Kitô giáo, trong đó có sự phân biệt giữa điều gì thuộc về Cesar và điều gì thuộc về Thiên Chúa (x. Mt 22,31), nghĩa là giữa Nhà nước và Giáo hội, hoặc, như Công đồng Vaticanô II nói, việc “nhìn nhận sự tự trị của các thực tại trần thế”[40].
Đức Bênêđictô XVI đã nhắc lại vài khẳng định liên quan đến chính trị như sau [41]:
1. “Nhà nước không được gây áp lực trên tôn giáo, nhưng có bổn phận bảo đảm tự do tôn giáo và hòa bình giữa những tín đồ thuộc những tôn giáo khác nhau.”
2. “Giáo hội (...) có sự độc lập của mình (...) mà Nhà nước phải tôn trọng.”
3. “Công bình là đối tượng và, vì thế, là tiêu chuẩn của chính trị.”.
4. “Chính trị còn hơn là một kỹ thuật để tổ chức các cơ cấu chính trị: nguồn gốc và mục tiêu là đức công bình, và bản chất của công bình thuộc về luân lý.”
5. “Trên thực tế, Nhà nước đương nhiên phải đối diện với câu hỏi: làm thế nào thực hiện công bình ở đây và lúc này.”
6. “Để có thể hoàn thành chức năng của mình, lý trí cần phải được thanh luyện liên lỉ, bởi vì lý trí không bao giờ có thể được hoàn toàn giải thoát khỏi nguy cơ của một thứ mù quáng phương diện luân lý, gây ra bởi tác dụng chói lóa của quyền lực và lợi ích. Ở điểm này, chính trị và đức tin gặp nhau.”
7. “Học thuyết xã hội Công giáo không chủ trương mang lại cho Giáo hội một quyền thế ở trên Nhà nước, cũng chẳng muốn áp đặt những viễn cảnh và cách cư xử cho những người không chia sẻ cùng một tín ngưỡng.”
8. “Học thuyết xã hội của Giáo hội lý luận theo lý trí và luật tự nhiên, nghĩa là khởi đi từ điều tương hợp với bản tính của tất cả mọi người.”
9. “Giáo hội không có vai trò đưa học thuyết này ra áp dụng vào chính trị; Giáo hội chỉ muốn phục vụ việc huấn luyện lương tâm trong vấn đề chính trị”.
10. “Giáo hội không thể cũng như không nên nhúng tay vào việc thực hiện một bộ máy chính trị để thực hiện một xã hội công bình hơn. Giáo hội không thể cũng như không nên thay thế Nhà nước. Nhưng Giáo hội cũng không thể cũng như không thể đứng bên lề cuộc tranh đấu cho công bình".
11. “Xã hội công bình không thể nào là công tác của Giáo hội, nhưng là của chính trị”.
12. “Đức bác ái –caritas– luôn luôn vẫn còn cần thiết, cho dù trong một xã hội khá công bình. Không có trật tự quốc gia nào, cho dù công bình đến mấy đi nữa, sẽ khiến cho việc phục vụ bác ái trở nên dư thừa.”
13. “Nhà nước mà muốn cung cấp mọi sự, muốn thâu tóm mọi sự, thì cuối cùng sẽ trở thành một bộ máy quan liêu.”
14. “Chúng ta không cần một Chính quyền điều phối và kiểm soát mọi sự, nhưng cần một Chính quyền, tuân theo nguyên tắc phụ đới, hiểu biết và nâng đỡ cách quảng đại những sáng kiến nảy sinh từ các lực lượng xã hội khác nhau và phối hợp cách bộc phát và gần gũi với những ai đang thiếu thốn.”
15. “Nghĩa vụ trực tiếp phải hoạt động để thể hiện một trật tự công bình trong xã hội là điều thuộc về các tín hữu giáo dân. Như là những người công dân của quốc gia, họ được kêu gọi đích thân tham gia vào đời sống chính trị.”
16. “Đức bác ái phải linh hoạt tất cả cuộc đời của các tín hữu giáo dân, và bởi vậy, hoạt động chính trị của mình được thể hiện như là ‘đức bác ái xã hội’”.
17. “Hoạt động bác ái của Kitô giáo phải độc lập khỏi các đảng phái và các ý thức hệ.”
Phụ thêm
Bài
viết của tác giả kết thúc với các văn kiện huấn quyền viết vào năm 2007 (Giáo
hoàng Bênêđictô XVI). Chúng tôi xin bổ túc với hai văn kiện của Đức đương kim
Giáo hoàng: 1/ Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013) và 2/ Sứ điệp ngày hòa
bình thế giới năm 2019 (8/12/2018). Cả hai nói đến “chính trị gia” hơn là “chính
trị”, nêu bật vai trò tích cực của họ hơn là vạch ra các khuyết điểm.
1. Tông huấn Evangelii gaudium (số 205)
Tôi cầu xin Thiên Chúa ban cho
chúng ta nhiều chính trị gia có khả năng đối thoại chân thành và hiệu quả nhằm
chữa lành những cội rễ sâu nhất –chứ không chỉ những hiện tượng–của sự dữ trong
thế giới chúng ta! Chính trị, dù thường bị chê bai, vẫn là một ơn gọi cao cả và
là một trong những hình thức cao quí nhất của bác ái, khi nó tìm kiếm lợi ích
chung. Chúng ta cần xác tín rằng, bác ái “là nguyên tắc không chỉ của các mối
quan hệ vi mô (với bạn bè, với các thành viên trong gia đình hay trong các nhóm
nhỏ), mà còn là nguyên tắc của các mối quan hệ vĩ mô (các quan hệ xã hội, kinh
tế và chính trị)”. Tôi cầu xin Chúa cho chúng ta nhiều chính trị gia biết thực
lòng lo âu trước tình trạng của xã hội, dân chúng, và cuộc sống của những người
nghèo! Điều cốt tử là các lãnh đạo chính quyền và các lãnh đạo tài chánh biết
lắng nghe và mở rộng tầm nhìn của mình, làm việc để bảo đảm mọi công dân có công
ăn việc làm, sự giáo dục và chăm sóc sức khoẻ xứng đáng. Sao chúng ta không chạy
đến với Thiên Chúa để xin Người soi sáng cho các kế hoạch của họ? Tôi hoàn toàn
tin chắc rằng sự mở lòng với Đấng Siêu Việt có thể đem lại một não trạng mới về
chính trị và kinh tế có khả năng phá đổ bức tường ngăn cách giữa kinh tế và công
ích của xã hội.
2. Sứ điệp nhân Ngày Hòa bình Thế giới 2019 : Chính trị tốt phục vụ hòa bình
Số 2. Thách đố để có được một nền chính trị tốt
[…] Chính trị là phương tiện thiết yếu để xây dựng cộng đồng và các cơ chế nhân loại, nhưng khi sinh hoạt chính trị không được xem như là một hình thức phục vụ toàn bộ tập thể xã hội thì nó sẽ trở nên dụng cụ đàn áp, gạt con người ra ngoài lề và thậm chí hủy diệt.
Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng, “nếu ai muốn là người làm đầu thì hãy là người rốt hết và đầy tớ cho mọi người” (Mc 9,35). Theo cách nói của thánh Giáo hoàng Phaolô VI, “hành xử chính trị một cách nghiêm túc ở mọi cấp độ khác nhau - địa phương, miền, quốc gia và quốc tế - chính là khẳng định rằng mỗi một cá nhân đều có nghĩa vụ chân nhận thực tại cũng như giá trị của quyền tự do được phú cho mình để cùng nhau và cùng lúc mưu cầu thiện ích cho xã hội, quốc gia và toàn nhân loại.”
Do đó, chức năng và bổn phận chính trị không ngừng thách đố những người được kêu gọi phục vụ đất nước của mình với nỗ lực bảo vệ các cư dân đang sinh sống tại đó và kiến tạo các điều kiện để xây dựng một tương lai tốt đẹp và công bằng. Nếu được thực thi với tinh thần tôn trọng cơ bản đối với sự sống, quyền tự do và phẩm giá con người thì sinh hoạt chính trị có thể trở nên một hình thức trổi vượt của đức bác ái.
Số 3. Bác ái và các đức tính nhân bản: nền tảng cho một nền chính trị phục vụ các quyền lợi của con người và hòa bình.
Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhận định rằng “mỗi Kitô hữu đều được kêu gọi thực thi đức bác ái phù hợp với ơn gọi của mình và theo mức độ ảnh hưởng cá nhân mình trong môi trường chính trị… Khi được đức ái linh hoạt, tinh thần dấn thân cho công ích sẽ có giá trị cao hơn là một lập trường chỉ mang tính trần tục và chính trị thôi… Khi được đức ái thúc đẩy và nâng đỡ, sinh hoạt của con người góp phần vào việc xây dụng nên một xã hội phổ quát của Thiên Chúa, là cứu cánh của lịch sử gia đình nhân loại.” Đây chính là chương trình mà tất cả các chính trị gia, không phân biệt văn hóa hay tôn giáo, đều có thể nhất trí, nếu họ muốn cộng tác vì lợi ích chung của đại gia đình nhân loại và muốn thực thi những đức tính nhân bản ấy là nền tảng cho mọi sinh hoạt chính trị lành mạnh: công bằng, bình đẳng, tôn trọng nhau, thành thực, lương thiện và trung tín.
Theo chiều hướng này, cũng nên nhắc lại những “Mối Phúc của Nhà Chính Trị” đã được đề ra do Đức Hồng Y người Việt Nam, Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, một chứng nhân trung thành của Tin Mừng, qua đời năm 2002:
1. Phúc cho chính trị gia nào có ý thức cao và hiểu biết sâu về vai trò của mình.
2. Phúc cho chính trị gia nào có được sự tín nhiệm.
3. Phúc cho chính trị gia nào hoạt động cho công ích và không vì tư lợi.
4. Phúc cho chính trị gia nào luôn có lời nói đi đôi với việc làm.
5. Phúc cho chính trị gia nào hoạt động cho sự hiệp nhất.
6. Phúc cho chính trị gia nào hoạt động để đạt được sự thay đổi quyết liệt.
7. Phúc cho chính trị gia nào có khả năng lắng nghe.
8. Phúc cho chính trị gia nào không sợ hãi.
Mỗi một cuộc bầu cử hay tái cử và mỗi giai đoạn trong đời sống phục vụ công chúng đều là cơ hội để quay lại những đề tài tranh cử đã là nguồn cảm hứng của công lý và luật pháp. Có một điều chắc chắn là: chính trị tốt phục vụ cho hòa bình. Nó tôn trọng và cổ võ các quyền căn bản của con người, cũng đồng thời là những trách nhiệm hỗ tương, đem lại mối dây tin tưởng và biết ơn nhau ngày càng vững chắc giữa các thế hệ hiện tại và tương lai.
Số 4. Những tật xấu của chính trị
Đáng buồn là bên cạnh những ưu điểm, chính trị cũng không thiếu những tật xấu, hoặc là do cá nhân thiếu khả năng hoặc do những khiếm khuyết trong guồng máy và các định chế của nó. Rõ ràng là những tật xấu này làm giảm sút lòng tin tưởng vào hệ thống chính trị nói chung, cũng như của những người cầm quyền, các quyết định của họ và những ai có liên quan. Những tệ đoan này, trong khi làm suy yếu lý tưởng về một nền dân chủ đích thực, đã mang lại nỗi ô nhục cho môi trường sinh hoạt vì lợi ích công cộng và đe dọa tính hài hòa trong xã hội. Chúng tôi muốn nói đến tình trạng tham nhũng trá hình dưới những hình thức khác nhau: chiếm đoạt trái phép tài sản chung, bóc lột cá nhân, chối bỏ các quyền lợi, coi thường luật lệ chung, làm giàu một cách bất lương, biện minh cho quyền bính bằng vũ lực hoặc tùy tiện nại đến lý do chính trị và từ chối giao lại quyền hành. Thêm vào đó là thái độ bài ngoại, kỳ thị chủng tộc, thiếu sự quan tâm đến môi trường thiên nhiên để phục vụ cho lợi lộc nhất thời và sự khinh rẻ những người bị bắt buộc sống kiếp lưu đày.
Số 5. Nền chính trị tốt cổ võ sự tham gia của người trẻ và lòng tin nơi kẻ khác
Khi sự thực thi quyền bính chính trị chỉ nhắm đến việc bảo vệ quyền lợi của một nhóm nhỏ được ưu đãi thì tương lai sẽ bị đe dọa và những người trẻ có thể có nguy cơ mất lòng tin tưởng, vì họ bị đẩy ra ngoài lề xã hội mà không có khả năng cộng tác vào việc xây dựng tương lai. Nhưng khi chính trị, một cách cụ thể, khích lệ các tài năng của người trẻ và những hoài bão của họ thì bình an sẽ rạng rỡ trong nhãn quan cũng như trên khuôn mặt họ. Nó sẽ trở thành một lời bảo chứng đầy tin tưởng, đó là “Tôi tín nhiệm bạn và với bạn tôi tin” rằng chúng ta có thể chung tay làm việc cho lợi ích chung. Một nền chính trị phục vụ hòa bình nếu nó được diễn tả qua việc nhìn nhận các đặc sủng và khả năng của mỗi cá nhân. “Có gì đẹp hơn một bàn tay vươn ra? Nó đã được Thiên Chúa dựng nên để trao ra và nhận lãnh. Thiên Chúa không muốn bàn tay ấy giết chóc (x. St 4,1tt) hoặc gây nên đau khổ, nhưng là để chăm sóc và giúp ích trong cuộc sống. Cùng với con tim và trí khôn, bàn tay của ta có thể trở nên một phương tiện đối thoại”.
Chú thích
[1]
Chẳng hạn như các thông điệp xã hội của các Giáo hoàng, Công đồng Vaticanô II,
Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, số 73-76; Tuyên ngôn về tự do tín ngưỡng.
[2]
X. ĐGH Phaolô VI, Tông huấn Evangelii nuntiandi, số 29.
[3]
GLCG 407: “Nếu không biết rằng bản tính nhân loại đã bị tổn thương, bị nghiêng
chiều về sự dữ, người ta có thể mắc những sai lầm nghiêm trọng trong các lãnh
vực giáo dục, chính trị, hoạt động xã hội và luân lý (X. Thông điệp Centesimus
annus, số 25).
[4]
X. số 2243: “Hành động dùng vũ khí chống lại sự áp bức của chính quyền chỉ có
thể coi là hợp pháp khi đồng thời hội đủ các điều kiện sau đây: 1/ Trong trường
hợp chắc chắn các quyền lợi căn bản bị vi phạm một cách nghiêm trọng và kéo dài;
2/ Sau khi đã dùng hết mọi phương cách khác; 3/ Không gây ra những xáo trộn tệ
hại hơn; 4/ Có đủ cơ sở để hy vọng thành công tốt đẹp; 5/ Không thể nào tiên
liệu hợp lý được những giải pháp tốt hơn.
[5]
X. ĐGH Lêô XIII, Thông điệp Libertas præstantissimum.
[6]
X. ĐGH Piô XII, Diễn từ ngày 6/12/1953.
[7]
Chú thích của người dịch. Bản dịch tiếng Việt của văn kiện có thể tìm thấy trên
địa chỉ sau:
https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/ghi-chu-tin-ly-ve-mot-so-van-de-lien-quan-den-viec-tham-gia-cua-nguoi-cong-giao-vao-doi-song-chinh-tri-48449
[8]
X. Số 86, trích dẫn thông điệp Centesimus annus (số 46) của ĐGH Gioan Phaolô II.
[9]
Ibídem, trích dẫn tông thư Octogesima adveniens (số 42) của ĐGH Phaolô VI.
[10]
X. Số 62, trích dẫn hiến chế Gaudium et spes (số 40) của Công đồng Vaticanô II.
[11]
X. Số 96, hiến chế Gaudium et spes, và số 97, tuyên ngôn Dignitatis humanae.
[12]
X. TLHT số 160-196, giải thích 5 nguyên tắc chính: 1) công ích (số 164-170); 2)
mục tiêu phổ quát của tài sản (số 171-184); 3) bổ trợ (số 185-188); 4) tham gia
(số 189-191); 5) liên đới (số 192-196).
[13]
X. TLHT số 197-203, giải thích ba chân lý: 1) chân lý (số 198); 2) tự do (số
199-200); 3) công bình (số 201-203).
[14]
X. Như trên, trích dẫn định nghĩa của ĐGH Gioan XXIII trong thông điệp Pacem in
Terris.
[15]
X. TLHT số 384, trích dẫn Công đồng Vaticanô II (Gaudium et spes, số 25); sách
GLCG (số 1881); Bộ Giáo lý Đức tin (Ghi chú đạo lý, số 3).
[16]
X. TLHT, trích dẫn Công đồng Vaticanô II (Gaudium et spes, số 74).
[17]
X. TLHT số 388 trích dẫn thông điệp Pacem in Terris, sách GLCG (số 2237). và các
văn kiện khác của ĐGH Gioan Phaolô II.
[18]
X. TLHT số 33, trích dẫn Công đồng Vaticanô II (Lumen gentium, số 9).
[19]
X. TLHT số 581, trích dẫn tông thư Octogesima adveniens (số 46) của ĐGH Phaolô
VI.
[20]
Ibidem, trích dẫn Công đồng Vaticanô II (Apostolicam Actuosistatem, số 8); ĐGH
Phaolô VI, thông điệp Populorum progressio (số 44), ĐGH Gioan Phaolô II, tông
huấn Christifideles laici, số 42 và GLCG (số 1939).
[21]
X. TLHT số 184, nhắc đến truyền thống Hội thánh về lòng yêu mến người nghèo, và
không chỉ giới hạn vào việc bố thí mà còn bao hàm việc quan tâm đến chiều kích
chính trị và xã hội của cảnh nghèo.
[22]
X. TLHT số 424, trích dẫn Công đồng Vaticanô II (Gaudium etspes, số 76).
[23]
X. TLHT số 426, trích dẫn ĐGH Gioan Phaolô II, “Thư gửi các vị lãnh đạo quốc gia
ký kết thỏa ước Helsinki”, ngày 1/9/1980.
[24]
X. Số 572, trưng dẫn “bài diễn văn của ĐGH Gioan Phaolô II dành cho ngoại giao
đoàn”, ngày 12/1/2004.
[25]
X. Số 572, trích dẫn Ghi chú đạo lý của Bộ Giáo lý đức tin (số 6).
[26]
X. Số 394, trích dẫn hiến chế Gaudium et spes (số 74).
[27]
X. Số 394, trích dẫn ĐGH Piô XII, “Sứ điệp truyền thanh lễ Giáng sinh”, ngày
24/12/1944.
[28]
X. Số 380, trích dẫn Rm 13,1-7; I Tm 2,1-2; Tt 3,1 và 1Pr 2,13-16.
[29]
X. Số 381, trích dẫn 1Tm 2,1-2.
[30]
X. Số 165, trích dẫn GLCG số 1912.
[31]
X. Số 406-416, nói đến nhận định tích cực của ĐGH Gioan Phaolô II về chế độ dân
chủ trong thông điệp Centesimus annus (số 46); những giá trị của chế độ dân chủ
(TLHT số407); sự phân quyền và chế độ dân chủ (số 408-409); giải thích tính cách
luân lý trong việc đại biểu chính trị (số 410-412); những dụng cụ của sự tham
gia chính trị (số 413); tương quan giữa dân chủ và thông tin (số 414-416).
[32]
X. Số 287-300, trong đó nêu bật quyền có gia đình (số 294) và quyền của các phụ
nữ được làm việc (số 295); và bàn đến 3 vấn đề: lao động của trẻ em (số 296);
lao động của người di cư (số 297-298); lao động trong giới nông nghiệp (số
299-300).
[33]
X. Số 548 trong đó nói đến “nhân đức khôn ngoan giúp cho biết đưa ra những quyết
định hợp lý, thực tế, và có trách nhiệm về những hậu quả của các hành động của
mình.”
[34]
X. Số 209-254, Sách TLHT trình bày gia đình như là tế bào nòng cốt của xã hội,
đệ nhất xã hội tự nhiên (số 209-214) và hôn nhân như là nền tảng của gia đình
(số 215-220); tính cách xã hội của tình yêu (số 221-229), sự sống (số 230-237),
vai trò giáo dục (số 238-243), các thiếu nhi và những quyền lợi của các em (số
244-245); gia đình là trường dạy nếp sống xã hội (số 246-251). Cuối cùng, TLHT
nói đến việc xã hội phục vụ gia đình (số 252-254).
[35]
X. Số 361-376, trong đó TLHT phân tích những cơ may và rủi ro của việc
toàn-cầu-hóa (số 361-367): xét về hệ thống tài chính quốc tế (số 368-369); xét
về chức năng của nó trong cộng đồng quốc tế (số 370-372); xét về tương quan với
sự phát triển toàn diện (số 373-374); xét về sự cần thiết của công tác giáo dục
và văn hóa về điểm này (số 375-376).
[36]
X. Số 466-487, trong đó TLHT nhấn mạnh rằng môi sinh là một tài sản của tập thể
(số 466-471); việc sử dụng các công nghệ sinh học (số 472-480); tương quan giữa
môi sinh và sự phân phối tài sản (số 481-485); những lối sống mới (số 486-487).
[37]
X. Phần thứ ba, Đời sống trong Đức Kitô. Mục thứ nhất: Ơn gọi của con người: đời
sống trong Chúa Thánh Thần. Chương hai “Cộng đồng nhân loại” (số 401-414).
[38]
X. TY số 403: “Nguyên tắc bổ trợ muốn nói rằng một cơ cấu xã hội ở cấp trên
không nên xen vào cuộc sống nội bộ của một nhóm xã hội ở cấp dưới đến độ cướp
mất thẩm quyền của cấp thấp này. Đúng hơn cấp cao phải nâng đỡ cấp thấp trong
trường hợp cần thiết”.
[39]
X. TY số 465: “Theo lương tâm, người công dân không được vâng phục những mệnh
lệnh của chính quyền dân sự khi chúng đi ngược lại các đòi hỏi của trật tự luân
lý: ‘Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người’ (Cv 5,29)”.
[40]
X. Số 28, trích dẫn hiến chế Gaudium et spes (số 36).
[41] X. Số 28 các lời khẳng định 1 đến 11; số 29, các lời khẳng định 12 đến 17.