Thời sự Thần học - Số 92, tháng 05/2021, tr. 87-116.
_Rainer Gehrig_
Tác giả là giáo sư đại học San Antonio ở Murcia (Tây Ban Nha). Đây là bài thuyết trình tại cuộc hội thảo kỷ niệm 10 năm ban hành thông điệp Deus caritas est do Hội đồng Tòa Thánh “Cor unum” tổ chức tại Vatican vào các ngày 25-26/02/2006. Bài viết trình bày “thần học bác ái” như một ngành chuyên biệt của thần học, kết nạp những suy tư thần học về Tình yêu với những dữ kiện của khoa học nhân văn liên quan đến việc tổ chức công cuộc bác ái.
Nguồn: “The Encyclical Deus Caritas Est: Perspectives for a Theology of Charity”, in: Acts of The International Congress Love Never Fails Perspectives 10 years after the Encyclical Deus Caritas Est, Pontifical Council Cor Unum, Vatican City 2006, trang 105-121.
Chuyển ngữ: Ts. Gioan Nguyễn Long Quân
1. Thời nay, thần học bác ái được hiểu như thế nào?
1.1. Các hướng tiến của một ngành học đang phát triển
1.2. Những khó khăn hiện nay chung quanh chủ đề bác ái
1.3. “Cô bé lọ lem hay Người đẹp ngủ trong rừng” – sự vắng bóng thần học bác ái trong lĩnh vực suy tư, nghiên cứu và giảng dạy
2. Nền tảng thần học của tình yêu: đánh giá lại “Tình yêu” để suy tư thần học và thực tiễn về diakonia
2.3. Tình yêu: viễn tượng thông diễn khái niệm về thần học bác ái (DCE 3-11)
2.3. Hoạt động bác ái bắt nguồn từ Chúa Kitô
2.3. Chân tướng hoạt động bác ái của Hội thánh (DCE 31 tt)
3. Phải sống tình yêu như thế nào?
3.1. Viễn tượng lịch sử của thần học bác ái (DCE 20-26)
3.2. Viễn tượng trắc ẩn của thần học bác ái
3.3. Viễn tượng chứng tá của bác ái (DCE 31; 36 tt)
3.4. Viễn tượng đối thoại đại kết
4. Thần học bác ái như một khoa thần học chuyên biệt
Viết tắt: DCE = Thông điệp Deus caritas est. CIV = Thông điệp Caritas in veritate
Dẫn nhập
Cách đây mười năm, tôi đã có mặt tại đây, trong số những
người tham dự Hội nghị Quốc tế về Bác ái (tháng Giêng năm 2006), trong tâm trạng
háo hức chờ đợi thông điệp đầu tiên của ĐGH Bênêđictô XVI, đặc biệt là một
thông điệp về bác ái. Những ai dõi theo chủ đề này sẽ thấy rằng, thông điệp đã
nhìn nhận và vạch ra hướng đi cần thiết, bởi vì lĩnh vực thần học phục vụ bác
ái vẫn còn thiếu phần suy tư về phía Huấn quyền Giáo hoàng (Pompey, 2007,
tr.20). Trong buổi tiếp kiến ngay trước khi ban hành thông điệp, Đức Thánh Cha
đã dành cho chúng tôi bài giới thiệu và hướng dẫn để hiểu được văn kiện của
ngài: “Trong Thông điệp này, các chủ đề ‘Thiên Chúa’, ‘Đức Kitô’ và ‘Tình yêu’
được nối kết với nhau như bản chỉ dẫn trung tâm của đức tin Kitô giáo”
(Bênêđictô XVI, 2006b). Về phía các nhà thần học có nhiều phản ứng khác nhau:
có ý kiến coi Thông điệp như là “dấu mốc cho sự phát triển lâu dài về thần học
bác ái” (Baumann, 2014, tr.111), “một chương trình thần học gợi hứng cho một thực
hành canh tân của Giáo hội” (Pompey, 2007, tr.9). Trong thông điệp này, mặc dù
mục đích của Đức Thánh Cha không phải là xác định những nguyên tắc cho môn thần
học bác ái nhưng chúng ta có thể nhận thấy vài viễn ảnh căn bản. Cùng với thông
điệp Caritas in Veritate được ban hành năm
2009, kể từ nay, tình yêu trong chân lý đã trở
thành một đạo lý trung tâm cho sự phát triển của nền tảng thần học về công cuộc
phục vụ bác ái của Giáo hội. Ở đây, tôi sẽ trình bày một vài viễn tượng, nhưng
không dám nói là tất cả mọi viễn tượng, lại càng không dám coi đó là quy phạm
cho sự phát triển của thần học bác ái, mà chỉ là đề xuất về một cuộc đối thoại
với những người lãnh đạo hoặc nhân viên trong lãnh vực hoạt động bác ái xã hội.
Mục tiêu của tôi là thúc đẩy việc suy tư có hệ thống, được đặt nền tảng trên những
giáo huấn và đào tạo thần học, liên quan đến hoạt động bác ái và các cấu trúc của
Giáo hội.
1. Thời nay, thần học bác ái được hiểu như thế
nào?
Trong thông điệp đầu tiên, Đức Bênêđictô XVI đã xác định
điểm then chốt để trả lời cho câu hỏi này, từ phía Huấn quyền Giáo hội. Quan niệm
thần học về bác ái xoay quanh đề tài tình yêu
xét trong tương quan với Thiên Chúa và với con người, được Đức Giáo
hoàng đề cập đến một cách thấu đáo bằng những luận cứ triết học, Kinh Thánh và
thần học. Ngày nay, việc quay lại với trung tâm của vấn đề là điều cần thiết, bởi
vì thần học bác ái đang bị chất vấn từ nhiều mặt, mà tôi sẽ nêu lên cách vắn tắt
dưới đây.
1.1. Các hướng tiến của một ngành học đang
phát triển
Các giáo trình truyền thống về “Thần học bác ái”, tựa
như của cha Royo Marín (1963), trình bày vấn đề dưới góc độ của một nhân đức hướng
Chúa (đức mến hoặc đức ái) dựa theo đạo lý của thánh Tôma: yêu mến Thiên Chúa, yêu mến bản thân và yêu mến
người thân cận. Các vấn đề được phân phối dựa theo lược đồ
quen thuộc của luân lý tổng quát và luân lý chuyên biệt, thêm vào đó là danh
sách các việc bác ái, những yếu tố tích cực cũng như những nết xấu đối nghịch.
Lối trình bày này nhắm đến độc giả Kitô hữu, người có đức tin, đi tìm sự hướng
dẫn có hệ thống và mang tính thần học. Xã hội cũng xuất hiện như là một đối tượng
của đức ái dưới hình thức bác ái xã hội. Tác giả trình bày hệ thống phân minh
cho một cá nhân muốn tăng trưởng trong nhân đức: thực hành Thế nào, Lúc nào,
Bao lâu; nhưng lại ít đề cập đến những tiến trình đồng hành với một người nghèo
khổ, những động lực đức tin để làm việc bác ái, các tổ chức hoạt động trong cộng
đoàn của chúng ta, cách lên chương trình bác ái, và cách đương đầu với các
nguyên nhân dẫn tới tình trạng nghèo đói và bất công cơ cấu trong thế giới toàn
cầu hóa của chúng ta. Đối lại với việc giải thích mang tính luân lý truyền thống
này để cắt nghĩa rõ ràng các đặc trưng thần học của sự phục vụ (diakonia) của Kitô giáo (Oriol Tataret, 2000, tr. 208-243),
kể từ cuối thế kỷ XIX, đã nảy sinh nhu cầu suy tư về hoạt động bác ái có tổ chức
trước bối cảnh của các xã hội công nghiệp hóa, Nhà nước phúc lợi chung, công việc
tổ chức có khoa học hơn trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội, sự phân tích thực
trạng xã hội với những phương pháp thực nghiệm mới, cùng với nhu cầu chuyên
nghiệp hóa công tác xã hội. Bối cảnh toàn cầu hóa hiện đại làm nảy sinh nhu cầu
đào tạo và suy tư đã đưa đến, vào đầu thế kỷ XX bên Đức, việc thiết lập các
Trung tâm nghiên cứu và đào tạo đặc thù về khoa Bác ái, cùng với sự phối hợp của
các hoạt động bác ái, đầu tiên là ở cấp quốc gia (1897) rồi đến cấp giáo phận lấy
tên là Caritas. Trong bối cảnh này, thần học
bác ái được trình bày như là: “Một khoa học về bác ái đề cập đến nhân đức bác
ái Kitô giáo, xét như nó được bày tỏ trong đời sống cộng đồng Kitô giáo, như là
sự diễn tả tự phát do ý thức và ý muốn siêu nhiên của cộng đồng, như là một sự
trợ giúp tự do và khẩn cấp cho cộng đồng này, được phát sinh nhờ sức mạnh và động
lực siêu nhiên của lòng mến Chúa” (Keller, 1925, tr.45).
Là một môn học thực hành, thần học bác ái vận dụng các
môn khoa học bổ trợ khác nhau (khoa học nhân văn), nó tiến hành một cuộc khảo
sát lịch sử về hoạt động bác ái và phân tích những công tác bác ái được tổ chức
dành cho những nhóm người nghèo khổ, trong khuôn khổ hợp tác với Nhà nước phúc
lợi chung và các cơ quan từ thiện khác. Chúng ta nên lưu ý sự thay đổi từ lối
tiếp cận luân lý cá nhân, chuyển sáng khía cạnh “cộng đồng” và “can thiệp tự
do” trong một bối cảnh nhất định (Nhà nước phúc lợi chung và sự phối hợp dựa
trên nguyên tắc bổ trợ). Trên cơ sở những kinh nghiệm và điều kiện trong lĩnh vực
học thuật hàn lâm ở Đức, thần học bác ái phát triển thành một trong những ngành
học bác ái được công nhận như một môn học chuyên biệt, như đã xảy ra với Giáo
huấn Xã hội của Giáo hội, được giảng dạy trong các phân khoa thần học, nhất là
sau Công đồng Vaticanô II. Việc so sánh các định nghĩa khác nhau của thần học
bác ái (Pompey, 1997, 1999, 2001; Haslinger, 2004, 2009; Hilpert, 1997) có thể
giúp tóm tắt một vài yếu tố chung giữa các tác giả:
– Tất cả các tác giả đều đồng
ý rằng, thần học bác ái / khoa học bác ái là một môn thần học có vai trò đặc biệt.
–
Nó thuộc lĩnh vực khoa học thực tiễn, khoa học hoạt động.
–
Phạm vi học tập và nghiên cứu là hoạt động bác ái của
Hội thánh.
–
Nó đối thoại với các môn khoa học xã hội và nhân văn
khác.
–
Việc nghiên cứu bao gồm những phân tích thực nghiệm và
lý thuyết về các nội dung nổi bật của đức tin và truyền thống trong việc thực
thi bác ái của cá nhân và cộng đồng, và các hình thức có tổ chức có liên hệ.
Ở châu Mỹ-Latinh và vùng Caribê, sự nhận thức ngày
càng gia tăng về một thực tại kinh tế, chính trị xã hội và văn hóa được thể hiện
và chia sẻ trong các tài liệu chung kết của các Hội nghị chung của các Giám mục
Mỹ-Latinh, bắt đầu từ cuộc họp được tổ chức tại Medellín (1968), Puebla (1979)
cho đến lần gần nhất ở Aparecida (2007), đã tạo ra một động lực mới trong việc
đề ra lĩnh vực thần học bác ái. Nhận thức được sự bùng nổ
người nghèo như là một sự kiện trầm trọng, thần học đã được hướng dẫn
không chỉ trở về nguồn cội của tình yêu lân tuất, mà còn cần được cấu trúc với
phương pháp luận riêng biệt (Scannone, 2000, tr.358tt.): sự hiểu biết về tình
yêu – intellectus amoris (Sobrino, 1992,
tr.47tt.). Tôi cũng mời gọi thực hiện một sự phân tích và suy tư tương tự đối với
Á châu và Phi châu, nhằm cung cấp một bức tranh chi tiết về sự tiến triển của
thần học bác ái trong bối cảnh của hai lục địa này.
1.2. Những khó khăn hiện nay chung quanh chủ
đề bác ái
Vào thời nay, thần học bác ái đang phải đối diện với
nhiều thách đố. ĐGH Bênêđictô XVI nhắc tới một vài khó khăn, bắt đầu từ các thuật
ngữ tình yêu / bác ái trong các xã hội hiện
đại (DCE 2). Chính vì thuật ngữ này bị lạm dụng nhiều nên cần phải làm sáng tỏ
sự phong phú của khái niệm “tình yêu” để nó có thể bao gồm cả cuộc sống nhân
sinh lẫn việc thực thi bác ái. Một khó khăn nữa liên quan đến các tiêu chuẩn
đánh giá các lĩnh vực xã hội khác nhau, có ảnh hưởng đến khung cảnh của công việc
phục vụ (diakonia). Một cách điển hình, có thể mô tả thông qua một mô hình hệ thống
(Starnitzke, 1996), theo đó các hệ thống khác như: luật pháp (công lý / bất
công), kinh tế (chi trả / không chi trả), y tế (bệnh tật / lành mạnh), khoa học
(đúng / sai), chính trị (thống trị / không thống trị), v.v… những tiêu chuẩn
này có thể chất vấn hoặc gạt ra bên lề những thứ lôgic trong các dịch vụ bác ái
như là: sự ban tặng, cho không và chia sẻ, được hiểu không phải như sự trao đổi
hỗ tương nhưng là sự thể hiện tình yêu thương xót của Thiên Chúa trong một cộng
đồng yêu thương. Trong Deus Caritas Est, Đức Bênêđictô XVI dành nhiều đoạn cho khung cảnh chính trị
(DCE 26-29), và phê bình chủ trương “trọng hoạt động và […] duy thế tục của rất
nhiều Kitô hữu” (DCE 37) trong việc tham gia vào hoạt động bác ái, họ coi rẻ việc
cầu nguyện như một động lực thúc đẩy tham gia đi làm bác ái. Trong thông điệp Caritas in Veritate, Đức Thánh Cha đã nêu bật các tiêu chuẩn
đánh giá theo kinh tế, xã hội và văn hóa, và nhấn mạnh đến sự cần thiết phải
khôi phục tiêu chuẩn “yêu thương trong chân lý” như là liều thuốc giải độc và kế
hoạch biến đổi xã hội. Đặc biệt trong lãnh vực công tác xã hội với sự chuyên
nghiệp trong hình thức trợ giúp, người ta đang phát triển một thứ đạo đức
chuyên nghiệp và một phương pháp làm việc trong lĩnh vực khoa học xã hội, kéo
theo việc xây dựng một bối cảnh diễn giải, một dạng thông diễn riêng biệt,
không còn tham chiếu về các khung cảnh đạo đức và tôn giáo nữa (Luhmann, 1973).
Tự bản chất, tính tự trị này không phải là tiêu cực, tuy nhiên nó gây ra một kết
quả mang tính thế tục khi được trình bày như đã vượt lên trên các mô hình luân
lý và tôn giáo. Một câu hỏi được đặt ra như sau: liệu thần học bác ái có phải
là một đóng góp cần thiết cho sự hiểu biết về công việc cứu trợ, đặc biệt khi
thấy các tình trạng bất công mang tính cách cấu trúc và lan rộng khắp thế giới
không? Cũng cần ghi nhận rằng, các công tác xã hội được tập trung vào những sự
can thiệp được lập trình, giải quyết vấn đề, quản lý các trường hợp đặc biệt và
cắt đứt khỏi các môi trường cộng đồng và sự sống. Việc phối kết thần học trong
khuôn khổ công tác xã hội chuyên nghiệp gặp thách đố trong việc biện minh cho
chỗ dừng của thần học trong lĩnh vực cam kết xã hội (Doležel, 2012; Krockauer; Bohlen
& Lehner, 2006; Scales & Kelly, 2012; Singe, 2006), hay nói cách khác,
đề xuất thần học như một môn học tham chiếu cần thiết hầu nâng cao chất lượng
công tác xã hội chuyên nghiệp. Đặc trưng chính yếu của thần học này là bản chất
Kitô giáo của nó, một điều vốn giả định sự phát triển của nó như là một ngành
khoa học (tích hợp lý trí), sự hiện hữu của nó như một hệ quy chiếu cho dịch vụ
xã hội (thực tiễn, tập trung vào lý thuyết được áp dụng trong hoạt động thực tiễn,
các mô hình thực tiễn, phương pháp, v.v…) với lối tiếp cận theo bối cảnh (hoàn
cảnh hiện sinh, xã hội và kinh nghiệm trong lĩnh vực dịch vụ xã hội), mang tính
nền tảng, và bắt nguồn từ sự phục vụ (công bằng và nhân ái) cùng với một nền thần
học mục vụ thực tiễn (Lechner, 2000, pp.219ff.).
1.3. “Cô bé lọ lem hay Người đẹp ngủ trong rừng”
– sự vắng bóng của thần học bác ái trong lĩnh vực suy tư, nghiên cứu và giảng dạy
Liên quan đến các nước Đức, Pháp, Ý và Tây Ban Nha,
các tác giả như Baumgartner (2002), Hermanns (1997), Haslinger (2009) và Gehrig
(2015) đã bày tỏ mối quan tâm của họ về số lượng ít ỏi các trung tâm giảng dạy,
nghiên cứu và suy tư về thần học bác ái tại các phân khoa thần học. Chẳng những
không phải là một môn bắt buộc trong chương trình đào tạo, thần học bác ái bị
giảm thiểu chỉ còn như một vài khóa nhiệm ý hoặc thậm chí không có trong chương
trình học tập. Vai trò như “Cô bé lọ lem” của thần học, hoặc thậm chí là “Người
đẹp ngủ trong rừng”, chắc chắn là không phù hợp với một chiều kích cốt yếu của
Giáo hội. Do đó, với những viễn tượng mà tôi sẽ trình bày, tôi hy vọng sẽ khơi
dậy hứng thú trong việc cổ võ vị thế cơ bản phải được thừa nhận của thần học
bác ái, được canh tân bởi những đóng góp của Huấn quyền Giáo hoàng.
1.4. Tính cách đa nguyên khi bàn về các nền tảng
thần học của hoạt động bác ái hay sự phục vụ (diakonia)
Hiện nay có rất nhiều cách đặt nền tảng thần học cho
việc thực thi bác ái, hay sự phục vụ (diakonia), tùy
thuộc vào truyền thống của các tôn phái khác nhau và lối tiếp cận của các tác
giả (x. Rüegger, H. & Sigrist, C.,
2014). Về phía Công giáo, điều quan trọng là phải đi vào đối thoại với các cách
đặt nền tảng này để hiểu được những điểm chung, những khác biệt, và hướng tới một
đề xuất thần học thực tiễn về đức tin hoạt động
nhờ tình yêu (Gl 5,6). Việc suy tư về nền tảng thần học của hoạt động
bác ái có thể tạo ra một nhiệm vụ chung cho thần học bác ái và giáo huấn xã hội
của Hội thánh, bằng chứng là đã có nhiều cuộc hội thảo khác nhau được tổ chức tại
Rôma trong những năm qua (Dal Toso & Schallenberg, 2014 y 2015;
Schallenberg & Dal Toso, 2016), và tại những nơi khác nữa (Glatzel, and
Pompey, 1991; Marx, 1999). Mặc dù không liên quan đến chuyện đang bàn, nhưng cần
phải nói rằng các thông điệp xã hội của ĐGH Bênêđictô XVI cũng tượng trưng cho
một thách đố đối với giáo huấn xã hội của Hội thánh dưới phương thức “yêu
thương trong chân lý về những vấn đề xã hội - caritas in
veritate in re sociali” (CIV 5), sự công bố chân lý về tình yêu của
Chúa Kitô trong xã hội (Roos, 2015, p.13), sự xoay chuyển tri thức bổ túc “hai
trật tự hiểu biết - duplex ordo cognitionis”
(luật tự nhiên và mặc khải, Nothelle-Wildfeuer, 1991) thành “ba trật tự - triplex ordo”, qua việc nhìn nhận cho tình yêu một nguyên lý
hiểu biết thần học (Rubio de Urquía & Pérez-Soba, 2014; Pérez-Soba, 2014).
Do đó, thông điệp Deus Caritas Est trả lời cho các
câu hỏi liên quan đến những nền tảng thần học về bác ái với một loạt các chỉ dẫn
mang tính chiến lược:
a)
Duy trì sự hợp nhất của tình yêu Thiên Chúa và nhân loại
(eros/agape) như cột trụ của công cuộc phục vụ bác ái (DCE 3-11).
b)
Đặt cội nguồn của hoạt động bác ái từ Đức Kitô (DCE
12-18).
c)
Đề xuất một chân dung đặc thù của công tác bác ái của
Hội thánh (DCE 25; 31ff.).
Sau đây chúng tôi sẽ khai
triển những điểm vừa kể.
2. Nền tảng thần học của tình yêu: đánh giá lại
“Tình yêu” để suy tư thần học và thực tiễn về diakonia
Kể từ sau thông điệp Deus
caritas est, viễn tượng thứ nhất cho thần học bác ái là phân tích,
miêu tả và hiểu biết các đặc điểm của tình yêu Kitô giáo dưới các chiều kích thần
học, nhân học và thực tiễn. Trong phạm vi thực hành, viễn tượng này có tầm quan
trọng đặc biệt đối với công tác bác ái phục vụ được nhìn như tình yêu của Kitô
giáo có tổ chức.
2.1. Tình yêu: Viễn tượng thông diễn khái niệm
về thần học bác ái (DCE 3-11)
Dưới viễn tượng thông diễn, thông điệp này buộc chúng
ta phải suy tư, phục hồi và tái đánh giá, đặc biệt là khía cạnh ngữ nghĩa của
“tình yêu” từ góc độ thần học, đồng thời cũng đối thoại liên tục với các ý
nghĩa của nó theo những nền văn hóa, tôn giáo và ngôn ngữ khác nhau của thời
nay (DCE 22). Sự thông diễn này dựa trên đức tin để tìm kiếm sự thống nhất của
khái niệm “tình yêu”, theo quan điểm của ĐGH Bênêđictô XVI, sẽ giúp chúng ta hiểu
rõ hơn về trọng tâm của đời sống con người cũng như cốt lõi của mầu nhiệm Thiên
Chúa Tam vị. Thần học bác ái sẽ không thể tránh né công việc tư duy để hiểu biết
sâu sắc về mối tương liên giữa các chiều kích khác nhau của tình yêu nhân loại
từ góc độ thần học, dựa trên đức tin được ghi khắc trong gia sản Sách Thánh và
sự diễn tả qua những kinh nghiệm hiện nay. Khởi đi từ những kinh nghiệm về đức
tin của các Kitô hữu tiên khởi bén rễ trong truyền thống Kinh Thánh, từ đó tạo
ra một trường ngữ nghĩa mới của khái niệm agape để diễn tả
tình yêu được sẻ chia, nhận được từ Thiên Chúa trong sự hiện diện của Đức Kitô
thông qua Chúa Thánh Linh, một tình yêu tạo nên cộng đồng và làm biến đổi cuộc
sống của cá nhân cũng như xã hội. Dưới viễn tượng thông diễn, thần học bác ái
không những phải đi vào cuộc đối thoại với những suy tư và đóng góp của triết học
(Hildebrand, 1971; Kuhn, 1975; Lotz, 1979; Pieper, 1972), mà còn với những suy
tư và đóng góp của thần học Tin Lành (chẳng hạn: Jeanrond, 2010; Knauber, 2006;
Stock, 2000; Wischmeyer, 2015), tâm lý học (Fromm, 1967; Sternberg, 1989) và xã
hội học (Beck & Beck-Gernsheim, 2001; Kuchler & Beher, 2014; Luhmann,
1982), mặc dù nó vẫn tập trung vào lối tiếp cận thần học và sự nối kết với việc
thực thi bác ái. Thông điệp này đóng góp vào nhiệm vụ ấy khi nhấn mạnh đến khả
năng yêu thương vốn đã thấm sâu vào bản tính con người. Đó là nhiệm vụ có tầm
quan trọng đặc biệt khi có những khuynh hướng muốn thay thế thuật ngữ “bác ái”
bằng “liên đới” hoặc “công bình” trong lãnh vực đạo đức xã hội và dấn thân xã hội.
2.2. Hoạt động bác ái bắt nguồn từ Chúa Kitô
Thông điệp này chứa đựng rất nhiều điều liên hệ giữa
Chúa Kitô với tình yêu tự nhiên và siêu nhiên cùng với việc thực thi bác ái của
Giáo hội. Thật vậy, điều răn yêu thương người thân cận được ghi khắc trong
chính bản tính con người, vốn được dựng nên theo hình ảnh và giống như Thiên
Chúa (DCE 31). Viễn tượng nhân học trên bình diện tự nhiên giúp cho sự mở rộng
đến việc cộng tác với các người khác: sự hiện diện của Đức Giêsu nơi người
nghèo, sự đồng hóa Người với họ (Mt 25,40) đã hòa nhập ở nơi Người lòng yêu mến
Thiên Chúa và yêu mến người thân cận (DCE 15).
Trong Chúa Kitô, chúng ta hiểu được sự khiêm hạ của
mình trong việc phục vụ, mà đỉnh cao là hành vi tự trao hiến: “Tôi phải là một
nhân vị hiện diện ở trong món quà của tôi” (DCE 34). Từ cuộc gặp gỡ thân mật với
Thiên Chúa, tôi học cách nhìn người thân cận từ góc độ của Chúa Giêsu Kitô (DCE
18). Đức Thánh Cha ý thức rằng, hình thức yêu thương người thân cận cách triệt
để như thế đòi hỏi cần có sự nuôi dưỡng tinh thần, một mối liên hệ sống còn với
hai chiều kích khác của Giáo hội là leiturgia (phụng
vụ) và martyria (chứng nhân), và đòi hỏi thần học
bác ái phải bao gồm viễn tượng của linh đạo. Theo các nhà nghiên cứu chuyên sâu
về tư tưởng thần học của Joseph Ratzinger tựa như giáo sư Menke, thì đối với Đức
Thánh Cha, điều quan trọng là phải tiếp tục lập luận của huấn thị Dominus Jesus, kết hợp tình yêu, eros và bác ái với Kitô học:
“Cùng với hoạt động bác ái của mọi Kitô hữu, việc bác
ái của Hội thánh trước hết phải được hiểu như là sự thông dự vào tình yêu của Đấng
Cứu Độ chịu đóng đinh, hay hơn nữa, như là việc được bao hàm trong tiến trình
làm cho Chúa Kitô hiện diện (representatio Christi).
Nếu chúng ta chỉ hiểu việc trợ giúp như là sự áp dụng, hệ luận hay bắt chước
tình yêu của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ chỉ có một kế hoạch chính trị hay ý thức
hệ để cải thiện các điều kiện sống của một nền văn hóa hay của nhân loại nói
chung” (Menke, 2008, p.57).
Việc tạo ra một phong cách cộng đồng đặc thù, tình
huynh đệ nội bộ, bao hàm việc mở rộng sứ mạng ad extra (hướng
ra bên ngoài) của Hội thánh, được cấu thành do sứ mạng làm cho Chúa Kitô hiện
diện (representatio Christi). Trong phần thứ
hai của thông điệp, lối tiếp cận Kitô học này cho phép hiểu rõ hơn tầm quan
trong của Hội thánh xét như là cộng đồng yêu thương, một nơi không còn nghèo
đói (DCE 20), cùng với việc phê bình việc chiêu dụ vào đạo (proselytism).
Các tác phẩm của Koch vào năm 2010 và 2012 đã bổ túc việc phân tích chiều kích
Kitô học được gói ghém trong thông điệp này: “Trong các tổ chức bác ái, Thiên
Chúa và Đức Kitô không phải là những lời ngoại lai; trên thực tế, chúng vạch ra
nguồn gốc sơ khai của việc bác ái của Hội thánh. Sức mạnh của Caritas phụ thuộc vào sức mạnh đức tin của tất cả các thành
viên và cộng tác viên” (Benedict XVI, 2006b).
Căn nguyên Kitô-luận như vậy không thể nào được hiểu đầy
đủ nếu không xem xét nền tảng của nó trong Tam vị Chí thánh. Thông điệp đề cập
đến nền tảng này ngay từ đầu xét như một nền tảng thần học, và trong DCE 19, nó
được dùng như là tham chiếu cho hoạt động bác ái của Hội thánh. Các lý do này tập
trung vào thực tại của Thánh Linh, từ đó làm nảy sinh tình yêu của Hội thánh
xét như chiều kích hướng nội ad intra (sự hiệp
nhất của cộng đoàn) và hướng ngoại ad extra (phục
vụ người nghèo). Chúng ta vẫn còn cần thêm một lời giải thích rộng hơn về tầm
quan trọng của nền tảng này đối với việc thực thi bác ái và suy tư thần học về
bác ái.
2.3. Chân tướng hoạt động bác ái của Hội
thánh (DCE 31ff)
Trong mục này, vai trò của thần học là tập trung vào
các đặc điểm của sự trợ giúp bác ái trong tổ chức bác ái của Hội thánh xét như
công tác đặc thù opus proprium (DCE 29ff). Ở mục
trước, chúng tôi đã đề cập đến chân tướng độc đáo của việc trợ giúp bác ái xét
trong tương quan với Nhà nước. Về khía cạnh này, Đức Thánh Cha cũng cảnh báo về
nguy cơ sẽ rơi vào ý thức hệ muốn giải quyết mọi vấn đề của thế giới. Mặc dù có
thể hiểu rằng – đặc biệt ở các Quốc gia có bộ máy chính quyền rất yếu kém hay
siêu tham nhũng – Giáo hội dường như là không gian duy nhất cổ võ sự phát triển
xã hội, với nguy cơ là những cấu trúc của chúng ta có thể biến thành các bộ phục
vụ cho sự phát triển. Chúng ta nên cân nhắc kỹ lưỡng những lý lẽ thuận lợi và bất
lợi, suy tư về vị trí của Giáo hội trong tình huống này, xem xét các chọn lựa
thay thế hiện có và cách thức bảo tồn căn tính của Giáo hội.
Tương ứng với Agape ám chỉ
chính Thiên Chúa, được mô tả trong phần đầu của thông điệp, phải được đáp trả bằng
agape của Giáo hội. Agape làm nên bản tính của Giáo hội (DCE
25), được thể hiện qua ba nhiệm vụ (kerygma-martyria,
leiturgia và diakonia). Đức
Thánh Cha còn đi xa hơn khi nhấn mạnh rằng đây không chỉ là hoạt động bác ái,
nhưng là toàn thể Hội thánh được nhìn như một không gian và một mối quan hệ đặt
nền trên agape (các bí tích, lời nói, việc loan
báo Tin Mừng, các tổ chức, v.v…). Hội thánh là chủ thể của agape, từ các Giáo hội địa phương đến Giáo
hội hoàn vũ (DCE 32). Những chỉ dẫn cơ bản về cấu trúc việc phục vụ của Giáo hội,
vốn thuộc trách nhiệm của Giám mục trong các Giáo hội địa phương, cần tương ứng
chính xác với tính Giáo hội của tình yêu (ecclesiality of love),
được hoàn chỉnh bởi Tự sắc Intima Ecclesiae natura
(2012). Chúng ta có thể tóm tắt lối tiếp cận thứ nhất này như là trách nhiệm
mang tính thể chế phải sống như một cộng đồng yêu thương đích thực, một Giáo hội
xét như Thân thể Chúa Kitô, bí tích của tình yêu và lòng thương xót. Những đặc
tính tiếp theo đây sẽ đưa chúng ta đến gần sự hiểu biết về việc thực thi bác ái
hơn.
3. Phải sống tình yêu như thế nào?
Thần học bác ái không chỉ mô tả một cách lý thuyết về
các khía cạnh nền tảng của đức bác ái xét như tình yêu Thiên Chúa, nhưng nó còn
bị thách thức bởi câu hỏi thực tiễn về cách thức sống tình yêu này trong thế giới
hôm nay như thế nào, trong đời sống Kitô hữu của chúng ta, trong các công tác
phục vụ bác ái và trong các cộng đồng yêu thương.
3.1. Viễn tượng lịch sử của thần học bác ái
(DCE 20-26)
Từ số 20 đến số 26, Thông điệp DCE trình bày tổng quan
về nguồn cội lịch sử của hoạt động bác ái của Hội thánh. Điều này muốn cho thấy
rằng thần học bác ái có thể và cần phải dựa trên truyền thống lịch sử của Hội
thánh, để nhờ đó mà lưu giữ sức sống của truyền thống phong phú về việc thực
thi bác ái. Truyền thống phong phú này báo hiệu khả năng sáng tạo để tái đổi mới
tình yêu của Hội thánh, sức mạnh vĩnh cửu mà Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta
trong các thời kỳ chịu bách hại, chối bỏ, khủng hoảng nhân loại và thế giới. Điều
thú vị là vào đầu thế kỷ XX, với việc tái thiết lập thần học bác ái tại Đức, được
đánh dấu bởi sự phát triển của công nghiệp hóa và Nhà nước phúc lợi chung, một
trong những trụ cột của việc tổ chức môn học mới này là cuộc nghiên cứu di sản
lịch sử của truyền thống bác ái Kitô giáo, đặc biệt của Giáo hội Công giáo. Khởi
đi từ di sản của thế kỷ XIX và XX này, với khá nhiều tác phẩm đã được xuất bản,
ngày nay chúng ta có trách nhiệm tiếp tục mở rộng kiến thức phong phú ấy với những
thành tựu được cập nhật và với những tiến bộ gần đây trong các lĩnh vực khoa học
lịch sử, để duy trì sức sống của ý thức về lịch sử, cũng như tầm quan trọng của
nó đối với thực tiễn hiện nay.
3.2. Viễn tượng lòng trắc ẩn của hoạt động
bác ái dựa trên sự hợp nhất của tình yêu (Eros + Agape)
Sự hợp nhất của eros / agape (DCE
5 và 6), được ĐTC Bênêđictô XIV nêu bật, phải là một yếu tố nằm trong chân tướng
của cuộc phục vụ bác ái của Giáo hội dành cho người nghèo (Pompey, 2006; 2007,
tr.56tt.). Thật vậy, bên cạnh lý trí và khả năng chuyên môn, sự can thiệp bác
ái cần bao gồm cả Eros nữa. Eros này đã hiện
diện trong các đoạn Kinh thánh mô tả một vị Thiên Chúa yêu thương dân Người
(DCE 11), gây nên lòng xúc động sâu sắc. “Eros” của Thiên
Chúa không chỉ là một năng lực vũ trụ nguyên khởi; nó là chính tình yêu đã dựng
nên con người và cúi mình xuống trên con người, giống như người Samaritanô nhân
hậu cúi mình xuống với kẻ bị cướp và bị thương nằm bên vệ đường trên con đường
từ Giêrusalem đến Giêricô (ĐTC Bênêđictô XVI, 2006b). Trong Chúa Giêsu Kitô,
tình yêu Thiên Chúa trở nên tình yêu trao hiến. Sự trao nộp này được cử hành và
hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, Sacramentum Caritatis. Sự
biến đổi trong Bí tích Thánh Thể dẫn đến sứ mạng trợ giúp bác ái, được hiểu như
là sự biến đổi giữa các cá nhân nhằm mang lại tính liên tục cho cuộc trao nộp của
Chúa Kitô. Sự hợp nhất của eros / agape
làm cho các mối quan hệ trong Chúa Thánh Linh trở nên năng động. Trên thực tế,
người nghèo không chỉ muốn có sự chỉ dẫn (nội dung), sự giúp đỡ vật chất, hay mối
quan tâm chuyên nghiệp. Họ còn muốn có một mối liên hệ cá nhân, tình cảm và thể
lý (miseri cor dare) (DCE 34): bạn có tin
vào những khả năng của tôi không? Đức tin của chúng ta là một lòng tin mang
tính tương quan trong Chúa Giêsu Kitô, và các nội dung của đức tin chỉ có thể
hiểu được thông qua mối tương quan bác ái này (Pompey, 2006, p.119).
3.3. Đào luyện con tim - Viễn tượng chứng tá
của bác ái (DCE 31; 36tt)
Công cuộc cứu trợ trực tiếp và cấp thời cần phải được
thực hành và tổ chức cách chuyên nghiệp và trách nhiệm. ĐTC còn thêm một đặc điểm
nữa là sự cần thiết của việc đào luyện con tim (DCE 31tt). Tôi nghĩ rằng đây là
điều Đức Thánh Cha muốn nhấn mạnh trong phần thứ hai, và thần học bác ái giữ một
vai trò quan trọng: tìm kiếm các chương trình đào luyện nhằm giúp cho các nhân
viên trong tiến trình phát triển cá nhân và trong việc tăng trưởng đức tin, ngõ
hầu họ có thể sống cuộc gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng giúp họ có khả
năng làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa trong các mối quan hệ phục vụ này một
cách chân thực, chứ không bị áp đặt hoặc giả tạo. Không nên hiểu việc đào luyện
con tim như một kỹ thuật truyền thông, nhưng là sự hiện diện cá nhân được đức
tin thúc đẩy. Việc đào luyện tinh thần và đời sống tâm linh trong các mối quan
hệ trợ giúp, việc thực hành đức tin trong cộng đồng yêu thương vốn được nuôi dưỡng
từ cội nguồn của nó, tất cả làm nên một nền văn hóa làm chứng về tình yêu
thương xót của Thiên Chúa, về bản chất riêng tư và vô vị lợi của tình yêu đó.
Chúng ta cần có sự nghiên cứu, việc đào tạo các nhà
đào tạo, tiến trình đồng hành, các không gian được chia sẻ, nguồn lực và thời
gian dành cho nhiệm vụ này, để có thể cảm nghiệm tốt hơn tình yêu của Đức Kitô
đang thúc bách chúng ta (2 Cr 5,14). Trong một xã hội tách xa Giáo hội, nhưng đồng
thời đó lại là nơi chúng ta duy trì mạng lưới rộng lớn của các cuộc phục vụ bác
ái, chúng ta đang thiếu một lượng người có khả năng mong muốn cộng tác trong những
kinh nghiệm này, và với nền văn hóa tình yêu này. Do đó, điều quan trọng không
kém là tạo ra các khu vực để loan báo Tin Mừng từng bước một trong các cấu trúc
của chúng ta, hoàn toàn tôn trọng tự do cá nhân, nhưng luôn cho biết chúng ta
là ai và chúng ta chia sẻ điều gì.
Trong công cuộc giải thích này không thể nào thiếu mẫu
gương của các vị thánh có lòng bác ái, xét như phần thiết yếu của di sản sống động
này, đặc biệt là Đức Maria, Thân mẫu của Chúa (DCE 40-42). Tuy nhiên, đây không
chỉ là ký ức thuần túy lịch sử, các thánh còn đồng hành với chúng ta về mặt tâm
linh, chúng ta có thể chia sẻ cuộc sống của các ngài. Cuộc sống của các ngài
cũng trở thành nguồn cảm hứng cho các tổ chức lâu bền, các đặc sủng được canh
tân, chẳng hạn các Hiệp Hội thánh Vinh Sơn Phaolô kể từ thế XVII đã nảy sinh một
gia đình bác ái.
3.4. Viễn tượng đối thoại đại kết về thần học
bác ái
Thông điệp đã gây được tiếng vang lớn nơi các Giáo hội
khác, và nó tái khẳng định sự cởi mở và hợp tác trong lĩnh vực này, bởi vì
trong Kitô giáo, chúng ta chia sẻ di sản chung về Kinh thánh và Kitô học, thậm
chí về các khía cạnh Giáo hội học (Pompey, 2006, p.113; Pompey, 2007
pp.143ff.). Đức Thánh Cha mời gọi sự cởi mở đại kết với diakonia bên
Giáo hội Tin Lành và philanthropia
bên phía Giáo hội Chính thống, và kể cả đối thoại liên tôn liên quan đến chủ đề
lòng từ bi và tình yêu. Về vấn đề này, ta thấy tầm quan trọng của việc chia sẻ
các dự án nghiên cứu; các hội nghị, sự hợp tác cụ thể ở cấp địa phương và các dự
án hợp tác quốc tế.
4. Thần học bác ái như một khoa thần học
chuyên biệt
Bằng những cử chỉ khác nhau, triều giáo hoàng của Đức
Bênêđictô XVI và của Đức Phanxicô hiện nay đã cho thấy vai trò then chốt của
tình yêu trong đời sống Kitô giáo và trong sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo hội
ngày nay. Sự chuyển hướng về tâm điểm đức tin Kitô giáo bao gồm nỗ lực thực hiện
việc làm chứng và tổng hợp toàn bộ căn tính của Giáo hội trong mối tương liên
giữa leiturgia, martyria và diakonia ở thời đại chúng ta. Suy tư sâu sắc của thông điệp
về mối liên hệ giữa công bằng và bác ái (DCE 26-29) không chỉ giúp hiểu được mối
tương liên giữa công bằng và bác ái hay giúp bảo vệ tự do tôn giáo trong hoạt động
bác ái độc lập. Nó còn giúp phân định giữa sứ mạng của Giáo hội trong việc thiết
lập một trật tự công bằng thông qua việc hướng dẫn lương tâm nhờ các nguyên tắc
được diễn tả trong Giáo huấn Xã hội của Hội thánh, với các nghĩa vụ của Nhà nước
và của chính trị.
Chính các tín hữu giáo dân dấn thân vào xã hội là những
người giữ vai trò chủ yếu trong lĩnh vực này, nhờ được hướng dẫn bởi các nguyên
tắc của Giáo huấn Xã hội (thực thi công bằng). Nhưng đối với Giáo hội, công tác
riêng biệt opus proprium trên hết vẫn là việc phục
vụ bác ái trong cộng đồng yêu thương, với những đặc
điểm đặc thù của nó, như đã thấy trong các mục trước. Theo tôi nghĩ, để có thể
diễn tả bản chất sâu xa nhất của Giáo hội cần dành một không gian đặc thù cho
việc suy tư, nghiên cứu, đào luyện và định hướng, ngõ hầu Giáo hội, qua các tổ
chức Caritas của mình cũng như các tổ chức
khác tham gia bác ái, có thể:
a)
Đưa ra một đáp ứng hữu hiệu đối với nhu cầu đào luyện
con tim của các thành viên (DCE 31a), trong bối cảnh của một cuộc phục vụ có tổ
chức trong một xã hội phức tạp với nhiều tác nhân khác nhau.
b)
Liên tục cải tiến công cuộc phục vụ chứng tá có tổ chức.
c)
Thiết lập một cuộc đối thoại trên cơ sở khoa học với
các ngành khoa học nhân văn khác, tập trung vào việc thực hành bác ái và cách
thức tổ chức.
d)
Thúc đẩy sự phát triển của lối tiếp cận khoa học cụ thể
(tình yêu được hiểu như là nguyên lý tri thức luận).
e)
Đảm bảo sự kết nối liên tục với thần học và Giáo hội dựa
trên kinh nghiệm thực tiễn.
f)
Tăng cường sự hợp tác liên ngành với các bộ môn thần học
có liên quan đến tình yêu.
Sau đây, tôi sẽ trình bày chi tiết về các yếu tố đặc
biệt của ngành học này bằng biểu đồ bên dưới, dựa trên những suy tư trong thông
điệp Deus Caritas Est cũng như những đóng góp
của các bạn đồng nghiệp từ Freiburg và Olomouc.
Trong sơ đồ khái niệm này, thần học bác ái mang nghĩa
tạo điều kiện thuận lợi cho nền tảng thần học của việc thực thi bác ái trong
chân lý. Nền tảng này khởi đi mặc khải của Thiên Chúa Tam vị xét như một cộng đồng
yêu thương. Những đóng góp chính của thần học về mầu nhiệm này (thần học hệ thống)
và triết học hỗ trợ cho sự hiểu biết thiên về ý tưởng tình yêu và mối liên hệ
giữa nó với nhân học. Phần này sẽ cung cấp những nền tảng thần học cho sự phục
vụ bác ái của cộng đồng yêu thương.
Biểu đồ tiếp tục với sự phát triển theo hai chiều
kích: các chiều kích hiện sinh và các chiều kích luân lý cùng với các khoa học
và chức năng tương ứng, bao gồm cả những nền tảng khoa học khác nhau.
Duy trì một cuộc đối thoại sống động liên ngành giữa
thần học với các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác về bản chất của tình
yêu / bác ái; vai trò của nó xét như một phạm vi thần học; phạm vi của nó xét
như một năng lực biến đổi, ở cấp độ cá nhân cũng như trong cộng đồng; khả năng
“đối nội” của nó xét về mặt tri thức luận (đối với đức tin và thực tại Giáo hội),
và cả “đối ngoại” trong việc phân tích xã hội với những nhiệm vụ của nó.
Kế đó, biểu đồ này đi xuống các mục tiêu theo hai chiều
bổ sung của nó, được thể hiện trong kinh nghiệm và cách diễn đạt Kinh Thánh,
cũng như trong hoạt động bác ái của Kitô giáo, đồng thời đáp trả cho một tầm
nhìn nhân học toàn diện.
Biểu đồ chủ yếu phản ánh bản chất liên ngành của thần
học bác ái, không chỉ dừng lại ở phần thứ nhất liên quan đến nền tảng thần học:
khởi đi từ nội dung lý thuyết này, điểm đến của nó là phân tích việc thực hành
cụ thể trong các tổ chức được kết hợp bởi sự suy tư phê bình, và cùng nhau xây
dựng các việc thực hành tốt nhất để sự phục vụ bác ái ngày càng trở nên chứng
tá đích thực của tình yêu Thiên Chúa.
-
MẶC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA XÉT NHƯ MỘT CỘNG ĐỒNG TAM VỊ CỦA TÌNH YÊU TRONG ĐỨC
GIÊSU KITÔ -
THẦN HỌC & TRIẾT HỌC (SUY TƯ VÀ GIÁO HUẤN VỀ THIÊN CHÚA TÌNH YÊU) -
NHÂN HỌC NHẬP THỂ (GIÁO HUẤN VỀ NHÂN LOẠI) CÁC NỀN TẢNG
CỦA TÁC VỤ BÁC ÁI TRONG CỘNG ĐỒNG YÊU THƯƠNG |
|||
Các chiều
kích hiện sinh / hữu thể của tác vụ bác ái |
Các chiều kích luân lý của tác vụ bác ái |
||
Thần học thực
hành bác ái Chức
năng cấu tạo Trợ giúp và
chữa lành về mặt tâm linh – hiện sinh |
Các khoa học
nhân văn Chức
năng hỗ trợ Trợ giúp và
chữa lành về mặt thể lý – y tế, tâm lý, xã hội – vật chất |
Luân lý cá nhân Chức năng hướng dẫn Hướng dẫn đạo
đức cá nhân |
Luân lý xã
hội Chức
năng đồng hành Cải thiện về
mặt cấu trúc các điều kiện sống |
Tình yêu
trong Chân lý Hoàng đạo của
thần học về Tác vụ và Cộng đồng Yêu thương Sức mạnh của
Tình yêu |
|||
Nền tảng khoa
học Thần học Tín lý, Tâm linh, Mục vụ, Truyền giáo |
Nền tảng khoa
học Các
khoa học Tự nhiên và Xã hội (Y khoa, Tâm lý học, Sư phạm, Công tác Xã hội,
v.v…) |
Các quy tắc
cơ bản về khoa học Thần học Luân lý, đặc biệt là Luân lý các nhân đức |
Các quy tắc
cơ bản về khoa học GHXH
và Luân lý Xã hội (các Thông điệp Xã hội) |
Mục tiêu Hòa
giải và Canh tân: -
Sức mạnh cho cuộc sống, sinh lực đời sống, lòng can đảm và động lực. - Ý nghĩa của cuộc sống, các quan niệm sống, lối sống. Hỗ trợ thông qua: -
Kinh nghiệm đức tin -
Rèn luyện Niềm Hy vọng, và - Tình yêu trong các mối quan hệ đối mặt hay “các Cộng đồng yêu thương” trong các giáo xứ thông qua: -
Chia sẻ về Cuộc sống -
Chia sẻ về sự Đau khổ, và -
Chia sẻ về Đức tin. |
Mục tiêu Phục
hồi và bảo tồn các yếu tố thiết yếu của cuộc sống trong các chiều kích khác
nhau của nó: -
thân thể, -
nhận thức, -
tâm thần, -
xã hội, -
vật chất, -
chính trị. |
Mục tiêu Bảo
tồn theo hệ thống vi mô các giới hạn luân lý trong lĩnh vực các tác vụ bác ái
và trong lối sống của người thụ hưởng: -
Không nói dối, -
Không lừa đảo, -
Không bóc lột lợi dụng, -
Không lạm dụng ngược đãi, -
Không phá hoại. |
Mục tiêu Các
nguyên tắc xã hội theo hệ thống vĩ mô cho lối sống này: -
Thiện ích chung -
Tình liên đới -
Bổ trợ Trật
tự cuộc sống và sự bảo tồn các điều kiện đời sống: -
vật lý -
sinh học -
xã hội -
kinh tế, và -
chính trị. |
Các Định
hướng theo Kinh Thánh Các
Hoạt động Tâm linh về Lòng thương xót, các Đặc sủng của Thánh Linh, và “Bài
ca Đức Ái” (1 Cr 13). |
Các Định
hướng theo Kinh Thánh Các
Hoạt động Thể lý về Lòng thương xót, Diễn từ về Cuộc Phán xét Chung thẩm (Mt
25,31-46), Người Samaritanô Nhân hậu (Lc 10,25-37). |
Các Định
hướng theo Kinh Thánh Mười
Điều Răn |
Các Định
hướng theo Kinh Thánh Các
Mối phúc trong Bài giảng trên núi (Mt 5,3-12). |
THỰC THI SỨ
VỤ BÁC ÁI TRONG CỘNG ĐỒNG YÊU THƯƠNG |
THƯ MỤC
Baumann K. (2014), Die
katholische lehramtliche Position zur Sorge um die Armen und Bedrängten aller Art, In C. Sigrist & H. Rüegger (Eds.), Helfendes Handeln im Spannungsfeld
theologischer Begründungsansätze,
TVZ, Zürich, 2014, pp.111-122.
Baumgartner I. (2002), Kann
man Menschennähe durch ein Studium der
Caritaswissenschaft lernen? Herausforderungen der Caritaspraxis heute, In S.
Demel, L. Gerosa, P. Krämer & L. Müller (Eds.), Im Dienst der Gemeinde, Wirklichkeit
und Zukunftsgestalt der kirchlichen Ämter,
LIT, Münster, 2002, pp.272-284.
Beck U. & Beck-Gernsheim E. (2001), El normal caos del amor,
Las nuevas formas de la relación amorosa, Paidós, Barcelona, 2001.
Benedetto XVI (2006a),
Encíclica Deus caritas est sull'amore cristiano, in AAS 98,3 (2006), 217-252.
Benedetto XVI (2006b), Discorso
del Santo Padre Benedetto XVI ai partecipanti ad un congresso internazionale
organizzato dal Pontificio Consiglio Cor Unum (23 gennaio 2006),
Tratto da http://w2.vatican.va/content/benedict-xvi/en/speeches/2006/january
/documents/hf_ben-xvi_spe_20060123_cor-unum.html
Benedetto XVI (2012), Lettera Apostólica in forma
di Motu Proprio
Intima ecclesiae natura sul servízio della carita,
Librería Editrice Vaticana, Roma, 2012.
Dal Toso G. P. & Schallenberg P. (Eds.) (2014), Nächstenliebe
oder Gerechtigkeit. Zum Verhältnis von Caritastheologie und Christlicher Sozialethik, Schöningh, Paderborn, 2014.
Dal Toso G. P. & Schallenberg P. (Eds.) (2015), Iustitia et
caritas. Soziallehre und Diakonie als kirchlicher Dienst an der Welt, Schöningh, Paderborn, 2015.
Dolezel J. (2012), Cirkevni
socidlni prdce na pozadi encykliky Deus caritas est, Palacky
University Publishing House, Olomuc, 2012.
Fromm E. (1967),El arte
de amar, Paidös,
Buenos Aires, 1967. Traduzione italiana: L'arte d’amare, II
Saggiatore, Arnoldo Mondadori Editore, 1963.
Gehrig
R. (2015), Training and
formation on Caritas-Theology (CT) and
Catholic Social Teaching (CST),
In G. P. Dal Toso, H. Pompey, R. Gehrig &
J. Dolezel, Church Caritas Ministry in the Perspective
of Caritas-Theology
and Catholic Social Teaching Palacky
University, Olomuc, 2015, pp.91-123.
Glatzel N„ & Pompey H. (Eds.), Barmherzigkeit oder
Gerechtigkeit? Zum Spannungsfeld von christlicher Sozialarbeit und christlicher
Soziallehre, Lambertus, Freibürg.
Haslinger H. (2004), Was ist
Caritaswissenschaft? Theologie und Glaube, 94(2),
2004, 145-164.
Haslinger H. (2009), Diakonie. Grundlagen für die
soziale Arbeit der Kirche, Schöningh, Paderborn, 2009.
Heim M„ & Pech J. C. (Eds.) (2013), Zur Mitte der Theologie im
Werk von Joseph Ratzinger / Benedikt XVI. (Ratzinger Studien Vol. 6), Friedrich
Pustet, Regensburg, 2013.
Hermanns M. (1997), Die
Verknüpfung von Sozialethik und
Caritaswissenschaft bei Heinrich Weber. Jahrbuch für
Christliche Sozialwissenschaften, 38,1997,92-114.
Hildebrand D. v. (1971), Das Wesen der Liebe.
Gesammelte Werke Vol III, Regensburg, 1971.
Hilpert K, (1997). Caritas
und Sozialethik. Elemente einer theologischen Ethik des Helfens,
Ferdinand Schöningh, Pader- born-München-Wien-Zürich,
1997.
Jeanrond W.G. (2010), A Theology of Love, T&T
Books, London, New York, 2010.
Keller
F. (1925), Caritaswissenschaft, Herder, Freiburg, 1925.
Knauber B.
(2006), Liebe und Sein: Die Agape als
fundamentalontologische Kategorie, Walter de Gruyter, Berlin, New York, 2006.
Koch K. (2010), Das Geheimnis des Senfkorns. Grundzüge des
theologischen Denkens von Papst Benedikt XVI (Ratzinger Studien V0I.3), Friedrich Pustet,
Regensburg, 2010.
Koch K. (2012), Die Offenbarung
der Liebe Gottes und das Leben der Liebe in der Glaubensgemeinschaft der
Kirche, In: M. C. Hastetter & H. Hoping (Eds.), Ein hörendes
Herz: Hinführung zur Theologie und Spiritualität von
Joseph Ratzinger / Papst Benedikt XVI Friedrich Pustet, Regensburg,
2012, pp.21-51.
Krockauer R„ Bohlen S. & Lehner, M.
(Eds.) (2006), Theologie
und Sozialer Arbeit. Handbuch fürs Studium, Weiterbildung und Beruf, Kösel, München, 2006.
Kuchler B. & Beher S. (Eds.) (2014), Soziologie der Liebe:
romantische Beziehungen in theoretischer Perspektive, Suhrkamp,
Berlin, 2014.
Kuhn H. (1975), Liebe.
Geschichte eines Begriffs, Kösel,
München, 1975.
Lechner M. (2000), Theologie in der Sozialen Arbeit. Begründung und
Konzeption einer Theologie an Fachhochschulen für Soziale
Arbeit, Don
Bosco, München, 2000.
Lotz J. B. (1979), Die Drei-Einheit der Liebe. Eros – Philía – Agápe, Knecht, Frankfurt a.M.,
1979.
Luhmann N. (1982), Liebe als
Passion. Zur Kodierung von Intimität
Suhrkamp. Frankfurt. Traduzione italiana: L‘amore come passione,
Mondadori, 2008.
Luhmann N. (1973), Formen
des Helfens im Wandel gesellschaftlicher Bedingungen, In H. W. Otto & S.
Schneider (Eds.), Gesellschaftliche Perspektiven der
Sozialarbeit. Vol.i, Luchterhand, Neuwied, 1973,
pp.21-43.
Marx R. (1999), Social
Doctrine of the Church and Charity, In Pontifical Council Cor Unum (Ed.),
Acts of the
World Congress on Charity, Vatican City, 1999, pp. 152-176.
Menke K.-H. (2008), “Die
Liebe Christi drängt
uns". Der theologische Ort der Enzyklika Deus Caritas est, In P. Klasvogt & H.
Pom- pey (Eds.), Liebe bewegt... und verändert die
Welt. Programmansage für eine Kirche, die liebt. Eine Antwort auf
die Enzyklika Papst. Benedikts XVI. Deus caritas est,
Paderborn, Bonifatius, 2008, pp.47-66.
Nothelle - Wildfeuer U. (1991), Duplex ordo cognitionis -
Zur systematischen Grundlegung einer katholischen Soziallehre im Anspruch von
Philosophie und Theologie, Ferdinand Schöningh, Paderborn, 1991.
Oriol Tataret A. M. (2000),
Diaconía cristiana y Estado social del derecho, In Corintios
XIII: Revista de teología y pastoral de la caridad, 95,
2000, 207-356.
Pérez Soba J. J. (2014), Creer en el amor. Un modo de conocimiento teológico,
BAC, Madrid, 2014.
Pieper J. (1972), Über die
Liebe, Kösel, München,
1972.
Pompey H. (1997a), Caritas
als lebensteilige, freie Vergeblichkeit: Caritas-philosophische Grundlagen des
Helfens, In H. Pompey (Ed.), Caritas - Das menschliche Gesicht
des Glaubens: Ökumenische und internationale Anstöße einer
Diakonietheologie, Echter, Würzburg,
1997, pp. 72-91.
Pompey H. (1997b),
Spiritualität und Praxis der Diakonie des
Helfens und Heilens, In H. Pompey (Ed.), Caritas - Das menschliche Gesicht
des Glaubens: Ökumenische und internationale Anstöße einer
Diakonietheologie, Echter, Würzburg, 1997, pp. 358-394.
Pompey H. (1997e),
Beziehungstheologie - Das Zueinander theologischer und psychologischer „Wirklichkeiten
und die biblisch-theologische Kontextualisierung von Lebens- und
Leidenserfahrung, In H. Pompey (Ed.), Caritas - Das menschliche Gesicht
des Glaubens: Ökumenische und internationale Anstöße einer
Diakonietheologie, Echter, Würzburg,
1997, pp. 92-128.
Pompey H. (1999), Biblical
and Theological Foundations of Charitable Works, In Pontifical Council Cor Unum
(Ed.), Acts of the World Congress on Charity,
Vatican City, 1999, pp.106-132.
Pompey H. (2001), Caritaswissenschaft im Dienst an der
caritativen Diakonie der Kirche - Was ist Caritaswissenschaft? Theologie und Glaube, 91, 2001,189-223.
Pompey H. (2006), Die Caritas-Enzyklika Benedikt XVI, »Deus Caritas est« - Ein Plädoyer für die Energetisierung und
Humanisierung der helfenden Agape/Caritas, In M. Lahtinen, T. Pohjolainen, T.
Toikkanen & K. Kießling (Eds.), Anno Domini
2006. Diakoniatieteen vuosikirja, Lähden Diakoniasäätiö, Lahti, 2006, pp.112-140.
Pompey H. (2007), Deus
caritas est. Zur Neuprofilierung der caritativen Diakonie der Kirche. Die
Enzyklika “Deus caritas est". Kommentar und Auswertung,
Echter, Würzburg, 2007.
Pompey H. (2008), Wie im Himmel so auf Erden. Wenn
Liebe göttlich wird...- Kirche als
Ikone der Dreifaltigkeit, In P. Klasvogt & H. Pompey (Eds.), Liebe bewegt... und verändert die
Welt. Programmansage für eine Kirche, die liebt. Eine Antwort auf
die Enzyklika Papst Benedikts XVI. “Deus caritas est", Bonifatius Verlag,
Paderborn, 2008, pp.387-419.
Roos L. (2015), »Wahrheit der Liebe Christi in der Gesellschaft«. Benedikt XVI. und die
Sozialverkündigung der Kirche, In L
Roos. W. Münch & M. Spieker, Benedikt XVI. und die Weltbeziehung der Kirche,
Ferdinand Schöningh, Paderborn, 2015,
pp.13-65.
Royo Marín A. (1963), Teología
de la caridad, 2aed„ BAC, Madrid, 1963.
Rubio de Urquía R. & Pérez-Soba J. J. (Eds.)
(2014), La Doctrina Social de la Iglesia.
Estudios a la luz de la encíclica Caritas in veritate, Biblioteca
de Autores Cristianos, Madrid, 2014.
Rüegger H. & Sigrist C. (2014), Grundlegende
Aspekte einer theologischen Begründung von Diakonie, In ibid. (Eds.), Helfendes
Handeln im Spannungsfeld theologischer Begründungsansätze, TVZ, Zürich, 2014, pp. 271-278.
Scales T. L. & Kelly M. S. (Eds.) (2012), Christianity and Social Work. Readings on the Integration
of Christian Faith and Social Work Practice, 4a ed. St.
Davids, NACSW, 2012.
Scannone J. C. (2000), Aportaciones de la teología de
la liberación a la teología de la caridad, In Corintios
XIII: Revista de teología y pastoral de la caridad, 95,2000,357-374.
Schallenberg P. & Dal Toso G. P. (Eds.) (2016), Der Mensch im Mittelpunkt. Die Anthropologische
Frage in Caritastheologie und Sozialethik, Schöningh, Paderborn, 2016.
Singe G. (2006), Theologische
Grundlagen für eine
postmoderne soziale Arbeit, Lit, Berlin, 2006.
Sobrino J. (1992), El
principio misericordia. Bajar de la cruz a los pueblos crucificados, Sal
Terrae, Santander, 1992.
Sternberg R. J. (1989), El triángulo del amor: intimidad, pasión y compromiso,
Paidós, Barcelona, 1989.
Starnitzke D. (1996), Diakonie
als soziales System. Eine theologische Grundlegung dia- konischer Praxis in
Auseinandersetzung mit Niklas Luhmann, Kohlhammer, Stuttgart, 1996.
Stock K. (2000), Gottes
wahre Liebe: Theologische Phänomenologie
der Liebe,
Mohr Siebeck, Tübingen, 2000.
Wischmeyer O. (2015), Liebe
als Agape. Das frühchristliche
Konzept und der moderne Diskurs, Mohr Siebeck, Tübingen, 2015.