Thời sự Thần học - Số 92, tháng 05/2021, tr. 212-223
_Ngô Sĩ Đình, O.P._
Bác ái (caritas)
là một phần quan trọng làm nên bản chất và sứ vụ của Giáo hội. Thực vậy, bản chất
Giáo hội được thể hiện qua một trách nhiệm bao gồm ba hoạt động: rao giảng Lời
Chúa (kerygma-martyria) cử hành các Bí tích (leiturgia), phục vụ bác
ái (diakonia). Những hoạt động này lệ thuộc nhau và không thể tách rời nhau[1].
Đức giáo hoàng Phanxicô nói rõ hơn: “Bác ái là một phần thiết yếu của Giáo hội.
Nếu không có bác ái thì không có Giáo hội. Bác ái thể hiện tình yêu của Giáo hội,
và Giáo hội tự thể hiện qua bác ái”[2].
Trong Giáo hội, mọi thành phần đều có trách nhiệm thực thi bác ái, nhưng
Caritas là tổ chức được Giáo hội giao vai trò đại diện Giáo hội trong lãnh vực
này.
1. Lịch sử
1.1. Vài sự kiện
Tổ chức Caritas
địa phương đầu tiên được Linh mục Lorenz Werthmann (1858-1921) thiết lập tại Koln nước Đức vào ngày 9 tháng 11 năm
1897 và mang tên là "Hiệp hội bác ái Công giáo Đức" (Charitasverband für das Katholische Deutschland).
Năm 1916, tổ chức này được hội đồng giám mục Đức công nhận là Liên hiệp các tổ
chức bác ái giáo phận. Tháng 7/1924 tại Đại hội Quốc tế Thánh Thể tại
Amsterdam, và để minh họa mầu nhiệm dưỡng nuôi của Bí tích Thánh Thể, Hiệp hội
Bác ái Công giáo được thành lập, lấy cơ sở là Caritas Thụy Sĩ, văn phòng đặt tại
Lucerne.
Tháng 12/1951, với
sự hỗ trợ của Toà thánh, Liên đoàn (Confederatio) Caritas được thành lập và đặt trụ sở tại Roma và mang tên
là Caritas internationalis. Mười
ba thành viên sáng lập là Áo, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Pháp, Đức, Hà Lan, Ý,
Luxembourg, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ. Ngay sau đó, Caritas đã
có những hoạt động mang tầm mức quốc tế như hỗ trợ nạn nhân lũ lụt tại Italia,
Hà Lan, và Bỉ (1954), và dần dần vượt ra khỏi ranh giới châu Âu, đến Etiopia,
Trung Hoa, và Việt Nam (1955-1958). Trong cuộc chiến tại Việt Nam, Caritas kêu
gọi giúp đỡ cho người dân cả hai miền Nam Bắc (1965-66). Thời điểm khai mạc
Vatican II, Liên đoàn Caritas có 74 thành viên.
Năm 1967, Đức
Phaolô VI ban hành thông điệp Phát triển các dân tộc (Populorum progressio) trong đó ngài đề nghị mỗi người phải
nghe được tiếng kêu của anh chị em mình, và phải đáp ứng bằng tình yêu; ngài
cũng nhìn nhận và giới thiệu tổ chức Caritas quốc tế là của Giáo hội và đang hoạt
động khắp nơi (s. 46). Năm 1968, trong cuộc nội chiến tại Biafra (một quốc gia
phía Đông Nigeria chỉ tồn tại trong vòng ba năm 1967-70), Caritas đã tham gia cầu
không vận dân sự lớn nhất cho đến thời điểm đó, nhằm cung cấp hàng cứu trợ cho
các nạn nhân nội chiến. Đây là một bước tiến trong lịch sử hoạt động ứng phó
nhân đạo của Caritas qua việc phối hợp với các cơ quan viện trợ khác. Năm 1970,
sau trận lốc xoáy làm thiệt mạng hàng trăm nghìn người tại Bangladesh và khiến
nhiều người lâm vào cảnh khó khăn, Caritas nhận
thấy việc chỉ tập trung vào cứu trợ khẩn cấp là không đủ, nhưng cần đầu tư vào
các công trình giúp người dân tránh thiên tai như các khu neo đậu cho tàu bè
tránh bão... Đây là kinh nghiệm phòng chống thiên tai, không chỉ khắc phục hậu
quả mà còn nỗ lực giải quyết những nguyên nhân hoặc ít là tránh những hậu quả
đáng tiếc. Cũng trong chiều hướng đó, để công việc phòng chống và ứng cứu khi gặp
thiên tai được hiệu quả hơn, năm 1981, Caritas xuất bản tập sổ tay ứng cứu khẩn
cấp. Tài liệu này thu hẹp khoảng cách giữa cứu trợ khẩn cấp và việc phát triển
con người toàn diện.
Năm 1984,
Caritas tham gia cứu trợ nạn đói tại Etiopia khiến một triệu người chết đói và ảnh
hưởng đến 8 triệu người khác. Năm 1994, cuộc chiến tranh diệt chủng tại Ruanda
khiến hơn 800.000 người thiệt mạng chỉ trong vòng ba tháng. Trong khi giúp đỡ
những nạn nhân của các cuộc xung đột này, Caritas ý thức rõ hơn vài trò cổ võ
hòa bình và được coi như cách thức tốt nhất để xóa bỏ những nguyên nhân của các
thảm trạng đối với người dân nghèo.
Năm 1997, trong
một nỗ lực quốc tế nhằm chống biến đổi khí hậu, nghị định thư Kyoto được thông
qua. Caritas tổ chức các chiến dịch vận động chăm sóc thiên nhiên, vì việc biến
đổi khí hậu ảnh hưởng đến những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất trên
thế giới.
Năm thánh 2000,
Caritas tham gia chiến dịch xóa và giảm nợ cho các nước nghèo. Năm 2004, Đức
Gioan Phaolô II, trong một lá thư gởi Ban điều hành Caritas Quốc tế, đã công nhận
tư cách pháp nhân theo giáo luật của Caritas Quốc tế và nhìn nhận những đóng
góp của Liên đoàn Caritas.
Năm 2007, Đức
Bênêđíctô XVI trong thông điệp đầu tiên tựa đề Deus
Caritas est công nhận vai trò hàng đầu của Caritas trong công tác
bác ái của Giáo hội (s. 31). Năm 2012 Bản Quy chế và Quy tắc mới của Liên đoàn Caritas
được Tòa thánh phê chuẩn. Caritas Quốc tế được xác nhận thay mặt Tòa thánh điều
phối các hoạt động nhân đạo của các Caritas địa phương. Năm 2015, thời hạn để đạt
được các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, Caritas kêu gọi cộng đồng quốc tế
cam kết hoàn thành công việc đã bắt đầu với Tuyên bố Thiên niên kỷ (9/2000) là
giúp mọi người, nam cũng như nữ và trẻ em, thoát khỏi các điều kiện sống đói
nghèo và vô nhân đạo.
1.2. Từ cứu
đói đến cổ võ hòa bình
Hầu hết các tổ
chức Caritas được thành lập để đáp ứng nhu cầu trước mắt là cung cấp lương thực
và ứng cứu các trường hợp khẩn cấp trong ranh giới quốc gia mình. Dần dần,
Caritas tại các nước phát triển bắt đầu hỗ trợ các quốc gia khác, nhưng vẫn tập
trung vào nhu cầu của những người gặp tình trạng khẩn cấp do thiên tai, chiến
tranh và xung đột sắc tộc. Đứng trước sự gia tăng những thảm họa này, việc tham
gia vào các chương trình cứu trợ khẩn cấp và phục hồi là điều hết sức cần thiết.
Vì thế, trong thập niên 1960, hoạt động của Caritas chủ yếu tập trung vào việc
chuyển giao tài nguyên từ các nước giàu cho các nước nghèo, hay nói theo nguyên
tắc của một số tổ chức phi chính phủ là trả lại cho người nghèo phần của họ.
Các chương trình phát triển tập trung vào các dịch vụ y tế, giáo dục và hệ thống
nước sạch.
Sang thập niên
1980 và đặc biệt trong những năm 1990, với nỗ lực xác định và giải quyết những
nguyên nhân gốc rễ của bất công nghèo đói, Caritas hướng đến việc tôn trọng quyền
lợi chính đáng của người nghèo, giúp họ có cơ hội lên tiếng chống lại những bất
công. Đây là một bước tiến trong việc cải tạo và xây dựng một xã hội công bằng
hơn, nhằm xóa bỏ nguyên nhân xung đột.
Bạo lực bao giờ
cũng là tội ác và không giải quyết được tận căn các cuộc xung đột, cho dù là
xung đột sắc tộc hay ý thức hệ. Trước thực trạng đó, Caritas nhận ra một trọng
tâm mới: hoạt động vì hòa bình và hòa giải. Đối với Giáo hội Công giáo, hòa
bình là điều kiện tiên quyết để phát triển. Hòa bình là kết quả của công lý và
dựa trên tình đoàn kết được thể hiện trong cuộc sống. Từ đây, Caritas gặp được
những giáo huấn cụ thể của Đức thánh cha Phanxicô trong hai Thông điệp Laudato Si, và Fratelli tutti. Trong đó, Đức thánh cha tố cáo những nguyên
nhân căn bản nhất của các cuộc xung đột và cổ võ mối tương quan huynh đệ giữa
con người với nhau và với thế giới thụ tạo.
1.3. Từ chuyển
giao đến phát huy nội lực
Trong những năm
1950 và 1960, Caritas tập trung vào việc chia sẻ nguồn tài nguyên từ các nước
giàu cho các nước nghèo. Hầu hết nguồn tài trợ đều đến từ châu Âu và Bắc Mỹ.
Các tổ chức Caritas châu Phi, châu Á, Nam Mỹ… thường phụ thuộc rất nhiều vào
các nguồn lực từ bên ngoài. Tuy nhiên, từ những năm 1970 và 1980, một bước ngoặt
lớn được thực hiện đối với Caritas, đó là Caritas tại các quốc gia nghèo bắt đầu
đảm nhận vai trò thực hiện các dự án quan trọng tại địa phương, với sự tài trợ
của chính phủ sở tại. Điều này thật đúng lúc, vì từ những năm 1990, các Caritas
châu Âu phải đối mặt với những thách thức về vấn đề nguồn lực, nhất là tài
chánh. Nguồn tiền từ các tổ chức tôn giáo đã giảm rất nhiều do ảnh hưởng của
phong trào thế tục hóa, do đó khả năng trợ cấp tài chánh cho các khu vực khác
cũng bị hạn chế. Ngoài ra, ở châu Âu, các tổ chức Caritas còn phải công khai chịu
trách nhiệm và minh bạch hơn trong các dự án, nên họ cũng gặp khó khăn trong việc
hỗ trợ các dự án tại các nước nghèo nếu không đáp ứng được các điều kiện khắt
khe. Hơn nữa, việc khan hiếm kinh phí buộc họ phải tìm kiếm nguồn tài trợ từ
chính phủ. Đổi lại, họ phải đáp ứng những điều kiện rất chặt chẽ trong việc phê
duyệt cũng như kiểm toán các dự án được họ tài trợ. Điều này gây khó chịu cho
các tổ chức đón nhận sự trợ giúp, nhưng cách nào đó, lại trở thành nhân tố tích
cực trong việc các Caritas địa phương nhận viện trợ dần dần buộc phải tìm cách
phát huy nội lực của mình hơn.
Trong nội bộ
liên đoàn Caritas cũng vậy. Trước đây, một thực tế không hợp lý là tại các cuộc
họp bàn về các vấn đề của những nước nghèo, hầu hết tham dự viên lại đến từ
châu Âu và Bắc Mỹ, đại diện nước nghèo chỉ là khách mời! Sau Đại hội năm 1999,
Caritas chuyển đổi các cuộc họp vùng về từng khu vực, với chương trình nghị sự
do khu vực liên quan thiết lập; từ đó, cán cân quyền lực trong nội bộ Caritas
đã thay đổi để mang tính địa phương hơn.
2. Tổ chức mạng lưới Caritas
Hiện nay liên đoàn Caritas (web : https://www.caritas.org ) gồm có 164 thành viên
là các Caritas quốc gia hiện diện tại 200 nước. Bốn năm một lần các đại diện
Caritas quốc gia họp đại hội đồng bầu ra Ban điều hành nhiệm kỳ 4 năm để điều
hành các hoạt động của liên đoàn. Ban điều hành gồm bảy thành viên, ba vị do
Toà thánh bổ nhiệm, ba vị do Đại hội đồng bầu và một vị do Ban điều hành bầu
ra. Chủ tịch và đại diện Toà thánh hiện nay là Hồng y Luis Antonio Tagle người
Philippines, đắc cử năm 2015 và 2019. Đứng đầu ban điều hành là vị Tổng thư ký,
Aloysius John, 64 tuổi người Ấn Độ, nhiệm kỳ từ tháng 5/2019. Văn phòng Tổng
Thư ký đặt tại Vatican, có trách nhiệm tổ chức các cuộc ứng phó khẩn cấp, vận động
và truyền thông, liên lạc với các Caritas quốc gia, và nâng cao năng lực cho
các thành viên thuộc liên đoàn. Ngoài ra, Caritas còn có đại diện tại Liên hợp
quốc ở New York và ở Geneva.
Các Caritas quốc gia liên kết với Hội đồng Giám mục địa
phương. Caritas quốc gia cam kết điều hành quản trị trong tổ chức mình theo các
nguyên tắc của Caritas Quốc tế, tôn trọng tính minh bạch và có trách nhiệm giải
trình với tư cách là thành viên Caritas Quốc tế. Liên đoàn Caritas được chia
thành bảy khu vực: châu Phi, châu Á, châu Âu, châu Mỹ Latinh và Caribê, Trung
Đông và Bắc Phi, Bắc Mỹ và Châu Đại Dương. Trong liên đoàn Caritas, mỗi đơn vị
địa phương tự trị và độc lập, kể cả cấp giáo phận. Tuy nhiên, vẫn có những mối
liên hệ hợp tác và bổ trợ giữa các đơn vị.
Caritas châu Á (web: caritas.asia) được thành lập năm 1999,
hiện nay có 24 thành viên và chia thành bốn tiểu vùng dựa theo địa lý: Trung Á,
Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á. Văn phòng Caritas châu Á đặt tại Bangkok, Thái
Lan, có vai trò phục vụ và hỗ trợ các Caritas trong khu vực, dưới sự hướng dẫn
của Giáo hội, phù hợp với các quyết định và kế hoạch được Đại hội đồng thông
qua.
3. Caritas Việt
Nam
Trong những năm
50 của thế kỷ trước, một tổ chức Caritas của Hoa Kỳ (CRS) đã có những hoạt động
cứu trợ tại Việt Nam, đặc biệt dành cho người di cư. Năm 1954, linh mục Joseph
J. Harnett, Giám đốc dự án cứu trợ người tị nạn, tham gia thành lập một chi
nhánh Caritas tại Sài Gòn. Tuy nhiên, hơn mười năm sau, với những nỗ lực của
linh mục Lawson Mooney cũng thuộc Caritas Hoa Kỳ, và sự can thiệp của Đức Giám
mục Phêrô Phạm Ngọc Chi, Caritas Việt Nam (CVN) mới được chính thức thành lập
năm 1965, với Đức cha Phạm Ngọc Chi là Đặc trách và cha Hồ Văn Vui là Giám đốc.
Trong thời gian ngắn, các Caritas Giáo phận ở miền Nam cũng được thành lập và
hoạt động theo chương trình chung CVN đề ra, đặc biệt trong lãnh vực cứu trợ
các nạn nhân chiến tranh và thiên tai.
Năm 1968 Đức cha
Philipphê Nguyễn Kim Điền làm Đặc trách CVN. Cùng năm đó, CVN mua 2 căn nhà số
01 đường Trần Hoàng Quân, Quận 5, gần khu chợ An Đông, để làm trụ sở. Trong
giai đoạn này, CVN mở ra các hoạt động xã hội, như lớp đào tạo cán bộ sơ cấp,
phòng phát thuốc, trường dạy trẻ em nghèo, dạy cắt may... Năm 1972, Đức cha
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận được chỉ định Đặc trách CVN, ngài mở rộng hoạt
động bác ái xã hội bằng việc thành lập một cơ quan điều hợp nhiều tổ chức hoạt
động xã hội, gọi là Hội Hợp tác để Xây dựng lại Việt Nam, gọi tắt là COREV
(Cooperation pour la Réédification du Vietnam), trong đó có sự tham gia của
Caritas Việt Nam. COREV xây dựng nhiều làng định cư mới, nhiều trung tâm xã hội
trong các làng di dân. Tháng 7/1974, linh mục Phêrô Trương Trãi, Gp. Nha Trang,
được cử làm Giám đốc, và đến tháng 6/1976 CVN được lệnh tạm ngưng hoạt động và
giao cơ sở cho chính quyền.
Trong kỳ họp Hội
nghị Thường niên tháng 10/2000, HĐGMVN quyết định thành lập Uỷ ban Bác ái Xã hội.
Đức Cha Phaolô Nguyễn Thanh Hoan được chỉ định làm Chủ tịch, ngài xin tái lập
CVN. Nhờ những hoạt động tích cực cho những người nghèo, bệnh tật và những nạn
nhân của thiên tai bão lụt, dịch bệnh, nghiện ngập, CVN được Nhà nước cho phép
hoạt động trở lại qua quyết định số 941/TGCP-CP, ngày 02/7/2008 với tư cách
pháp nhân chính thức. Đức cha Đa Minh Nguyễn Chu Trinh là Chủ tịch và Lm. Antôn
Nguyễn Ngọc Sơn là Giám đốc cho giai đoạn mới này.
4. Caritas hiện
nay
Trong văn thư
xác nhận Caritas Việt Nam[3],
Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ tịch HĐGMVN, nêu lên mục đích của việc thành
lập CVN: “Trong hoàn cảnh hiện nay của xã hội Việt Nam, HĐGMVN cần tổ chức
Caritas Việt Nam như một Hiệp hội để giúp đỡ một cách có hiệu quả những người
nghèo khổ, bệnh tật, những nạn nhân thiên tai, những nạn nhân xã hội như những
người nhiễm HIV/AIDS, những người nghiện ma túy, những phụ nữ trẻ em bị lạm dụng
tình dục…” Có thể nói, trong các ủy ban trực thuộc HĐGMVN, Ủy ban Bác ái Xã hội
– Caritas Việt Nam có một hệ thống mở rộng nhất. Thật vậy, theo Quy chế Caritas
Việt Nam, Caritas có cơ cấu tổ chức gồm văn phòng trung ương (CVN) và 27 văn
phòng Caritas của 27 giáo phận. Hiện nay, Caritas Việt Nam (web: http://caritasvietnam.org)
đặt trụ sở tại số 319, Quốc lộ 13, thuộc Giáo xứ Fatima Bình Triệu, TP. Thủ Đức.
Ngoài ra, nhiều giáo xứ cũng có hội Caritas trực thuộc Caritas giáo phận.
Caritas Việt Nam được điều hành bởi Hội đồng Quản trị và Hội đồng Đại biểu. Hội
đồng Quản trị họp ba tháng một lần, gồm Đức cha Chủ tịch UBBAXH là Chủ tịch, Tổng
thư ký do Đức cha chủ tịch bổ nhiệm, ba đại diện các Caritas giáo phận, hai đại
diện các dòng tu, và một đại diện giáo dân. Hội đồng đại biểu họp mỗi năm một lần
gồm Đức cha Chủ tịch và Tổng thư ký, đại diện của 27 Caritas Giáo phận, đại diện
của các hoạt động chính, đại diện dòng tu và giáo dân.
Về
nhân sự, hiện nay trụ sở Caritas Việt Nam có giám đốc
do Đức cha Chủ tịch bổ nhiệm, và 15 nhân viên đa số là tu sĩ làm việc thường trực.
Tại mỗi văn phòng Caritas giáo phận có Giám đốc do Đức cha Giáo phận bổ nhiệm
và một số nhân viên cộng tác. Theo báo cáo năm 2019, hiện có khoảng 180 nhân
viên làm việc toàn thời gian hoặc bán thời gian tại các văn phòng Caritas VN và
Caritas Giáo phận. Ngoài ra, còn có hơn 70 ngàn người là hội viên Caritas, tình
nguyện viên và cộng tác viên, là những người đóng góp lời cầu nguyện, công sức
và tiền bạc cho các hoạt động của Caritas trung ương và Caritas Giáo phận.
Về hoạt động,
có thể nói đến ba lãnh vực chính của Caritas Việt Nam: một là cứu trợ khẩn cấp và phục hồi sinh kế sau thiên tai; hai là phát triển con người toàn diện; ba là cổ võ cuộc sống
hòa bình và hòa giải trong xã hội. Trong ba lãnh vực đó, cứu trợ khẩn
cấp là mục đích đầu tiên của Caritas và cũng dễ được đồng hóa với hoạt động
chính của Caritas. Nhưng thực ra, lãnh vực thứ hai mới là hoạt động được đầu tư
nhiều hơn, cả về nhân lực cũng như tài lực. Thực vậy, khi xảy ra thiên tai lũ lụt,
có rất nhiều tấm lòng quảng đại hướng đến những nạn nhân qua những chuyến cứu
trợ. Chẳng hạn trong trận lũ lụt tại miền Trung cuối năm 2020, có nhân chứng tại
chỗ đã phỏng đoán khoảng 70 phần trăm chuyến xe trên quốc lộ 1 là những chuyến
chở hàng cứu trợ. Tuy nhiên, sau thời gian lũ lụt cao điểm đó, các hoạt động phục
hồi không được quan tâm lắm. Caritas dành nhiều hoạt động cho lãnh vực này. Hơn
nữa, trong cuộc sống thường nhật, người nghèo, đối tượng phục vụ chính của
Caritas, là những anh chị em thiếu cơ hội tiếp cận những phúc lợi xã hội, như
việc học hành, chữa bệnh, hội nhập cuộc sống xã hội… Caritas Việt Nam cũng như
các Caritas Giáo phận thường xuyên thực thi những hoạt động trong lãnh vực này
như giúp các anh chị em HIV/AIDS hoặc khuyết tật có cơ hội hòa nhập cộng đồng,
cấp học bổng cho học sinh các cấp, chữa bệnh cho trẻ em bị bệnh tim, giúp anh
chị em di dân an toàn… và rất nhiều hình thức khác nữa, nói chung là phát triển
con người toàn diện. Ngoài ra, việc cổ võ con người sống hòa bình với nhau và với
thiên nhiên qua những chiến dịch hành động, hoặc giới thiệu những tấm gương thầm
lặng trong đời thường… cũng là một lãnh vực của hoạt động Caritas Việt Nam, tuy
âm thầm nhưng có thể nói là lãnh vực giải quyết tận gốc những nguyên nhân xung
đột.
5. Mong ước
Xin gợi ra ba
mong ước. Thứ nhất, bác ái là bản chất của Giáo hội và là trách nhiệm của mọi
Kitô hữu, không là đặc quyền của ai. Vai trò của Caritas là vận động được nhiều
thành phần trong Giáo hội và trong xã hội tham gia vào việc xoa dịu nỗi đau của
anh chị em mình. Vì thế, Caritas mong muốn phát triển phong trào tình nguyện
viên sâu rộng hơn, đặc biệt cho các bạn trẻ, và có những hoạt động thiết thực
cho phong trào này. Thực sự, lòng quảng đại không bao giờ thiếu nơi con người,
chỉ cần có những hướng dẫn và tổ chức cụ thể. Thứ hai, hiện nay hoạt động của
Caritas, nhất là các Caritas Giáo phận, rất phong phú và đa dạng, nhưng xét như
là một tổ chức, những hoạt động đó cần được phối hợp để đem lại hiệu quả thiết
thực hơn. Thứ ba, cần tránh quan niệm không đúng cho lắm khi nghĩ rằng Caritas
cần tìm kiếm những khoản trợ cấp từ các nước để giúp đỡ người nghèo Việt Nam.
Thực sự, hiện nay, nhiều chương trình của Caritas đều có một phần hỗ trợ của
người Việt và một phần của nước ngoài. Có thể nói nguồn lực của Caritas Việt
Nam hiện nay đến từ các cộng đoàn người Việt nhiều hơn so với các tổ chức từ
thiện nước ngoài. Có lần một thành viên Caritas Đức đến thăm Việt Nam và tham dự
cuộc họp gây quỹ, đã xuýt xoa vui mừng trước những sự đóng góp rất quảng đại của
các mạnh thường quân Việt Nam. Đã đến lúc chúng ta cần vận động nguồn lực Chúa
ban qua những tấm lòng quảng đại đó. Hơn nữa, chúng ta cũng phải nghĩ đến việc
mở rộng vòng tay cho những người anh chị em tại các quốc gia khác thiếu thốn
hơn chúng ta. Mặc dù chúng ta còn nghèo, còn cần xin sự trợ giúp từ người khác,
nhưng khi chúng ta xin được mười đồng thì cũng nên sẵn sàng dành một phần cho
những anh chị em mình, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc… Hơn nữa, khi cho đi
là đón nhận, sứ điệp của Caritas là mọi người đều vừa cho đi vừa đón nhận.
Không ai chỉ có cho, mà cũng không ai chỉ có nhận.
Tài liệu tham
khảo:
Tổng hợp từ:
https://www.caritas.org/qui-sommes-nous/history/?lang=fr
https://www.caritas.org/wordpress/wp-content/uploads/2018/11/
partenarFRA.qxd_.pdf
Nguyen-Marshall,
V. (2009). “Tools of Empire? Vietnamese Catholics in South Vietnam”, Journal of the
Canadian Historical Association, 20 (2), 138–159. Bản dịch Việt ngữ của Lê Văn Luận:
Hoạt động cứu trợ của Công Giáo miền Nam giai đoạn
1954-1975, http://nghiencuuquocte.org/2020/05/05/hoat-dong-cuu-tro-cong-giao-mien-nam-1954-1975/#_ftn14