Thời sự Thần học - Số 92, tháng 05/2021, tr. 151-184
_Gregorio Guitián_
Giáo huấn xã hội của Giáo hội kể tình liên đới vào số những nguyên tắc căn bản, nhưng không đưa ra một định nghĩa chính xác về thuật ngữ này. Tác giả, giáo sư thần học tại đại học Navarra (Tây Ban Nha), khi ôn lại nguồn gốc và sự tiến triển của thuật ngữ này, cho thấy nó mang nhiều ý nghĩa khác nhau trong lịch sử. Đã có lúc tình liên đới được sử dụng để đối lại với đức bác ái Kitô giáo. Mặt khác, ngay trong các văn kiện của Giáo hội, tình liên đới cũng thay đổi ý nghĩa. Bài viết này muốn trình bày những khía cạnh khác nhau của tình liên đới, và đề nghị một định nghĩa của nó.
Nguồn: Sobre la formulación del principio de solidaridad de la Doctrina Social de la Iglesia. Teología y Vida 61/1 (2020) 21-46.
Viết tắt:
GHXH: Giáo huấn Xã hội của Hội thánh.
GLCG: Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo.
SRS: Thông điệp Sollicitudo Rei socialis của ĐTC Gioan Phaolô II (30/12/1987)
TLHTXH: Tóm lược Học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo (Compendio della Dottrina sociale della Chiesa, 2004), bản dịch tiếng Việt của Ủy ban Bác ái Xã hội thuộc HĐGMVN.
1. Nhập đề
Ngày nay, Giáo huấn xã hội của Giáo hội (GHXH)[1]
giữ một vị trí quan trọng trong toàn bộ đạo lý công giáo, và ngay cả trong cuộc
gặp gỡ các khoa học xã hội khi bàn đến những vấn đề luân lý. Trong quá khứ,
đã có lúc người ta đặt câu hỏi
về lý do hiện hữu của GHXH[2].
Nhờ sự bảo vệ cương quyết của ĐGH Gioan Phaolô II, GHXH đã được xếp vào
các môn thần học luân lý, chứ không còn bị coi là ý thức hệ nữa[3]. Thỉnh thoảng những tuyên bố của GHXH về
đề tài kinh tế đã gây ra tranh luận và ngờ vực, nhưng những phản ứng này không
liên quan đến những nguyên tắc căn bản của nó, mà thường chỉ liên quan đến các
điều phê phán hoặc những đường hướng hành động[4]. Điều
này cũng dễ hiểu thôi, bởi các đường hướng thường không đi vào chi tiết cụ thể
cũng như không được xem như là giải pháp độc nhất có thể dung hợp với căn tính
của Kitô giáo.
Kể từ thông điệp Sollicitudo
rei socialis (SRS), GHXH được giới thiệu như là “việc phát biểu thận
trọng của kết quả một việc suy tư chín chắn về những thực tại phức tạp của cuộc
sống con người trong xã hội và trong khung cảnh quốc tế, dưới ánh sáng đức tin
và truyền thống Hội thánh”[5].
Việc “phát biểu thận trọng” đòi hỏi tối thiểu hai chặng căn bản.
Thứ nhất, để suy tư chín chắn về thực trạng xã
hội thì tuyệt đối cần thiết phải hiểu biết tường tận, vì thế GHXH cần dựa trên
các chuyên viên của những môn học liên quan đến đời sống xã hội. Vì thế, dưới
ánh sáng của đức tin và truyền thống Hội thánh, GHXH được coi như kết quả của
cuộc nghiên cứu liên ngành, trong đó “không loại trừ bất cứ một tri thức nào, nếu
nó chứa đựng một sự thật”. Thật vậy, các khoa học nhân văn và xã hội mang lại
cho GHXH tính cách “chuyên môn, cụ thể và thức thời”[6].
Thứ hai, tính (cách) thận trọng cũng chi phối
việc phát biểu những suy tư, bởi vì để có thể đạt đến tất cả mọi người, GHXH cần
phải dễ hiểu, rõ ràng, chính xác. Dưới phương diện này, cuốn sách Tóm lược Giáo huấn xã hội (TLGHXH) xuất bản
năm 2004 được coi như một tài liệu quy chiếu tổng hợp tất cả giáo huấn từ đầu đến
nay. Ai muốn có một ý tưởng tổng hợp và chính xác của GHXH về bất cứ đề tài nào
đều có thể tìm thấy trong tài liệu này một lời giải đáp vắn tắt và đáng tin cậy.
Trong bài này chúng tôi muốn lưu ý đến tính thận trọng của
GHXH liên quan đến một trong những nguyên tắc thường hằng và căn bản của mình:
nguyên tắc tình liên đới. Theo lời ĐTC Gioan Phaolô II, “đây là một trong những
nguyên tắc nền tảng của quan điểm Kitô giáo về việc tổ chức xã hội và chính trị”[7].
Nhìn trong toàn bộ GHXH, tình liên đới được coi như một
nguyên tắc, một nghĩa vụ, một nhân đức và một thái độ[8]. Khởi
điểm cho cuộc nghiên cứu của chúng tôi là nhiều học giả nhận xét rằng cho đến
nay GHXH chưa đưa ra một định nghĩa đầy đủ về nguyên tắc tình liên đới. Năm 1999, nữ tu Bilgrien khẳng định rằng “tình liên đới chưa được
định nghĩa trong bất cứ văn kiện nào của Giáo hội”[9].
Cùng năm ấy, linh mục Monti, trong một nghiên cứu về nguồn gốc và khái niệm của
sự liên đới trong GHXH, cho thấy rằng tình liên đới được coi như là một luật, một
nghĩa vụ, một nhân đức và một nguyên tắc. Sau khi đã rảo qua một vòng lịch sử
chi tiết, Monti không ghi nhận một định nghĩa nào của Huấn quyền, và đặt tựa đề
cho chương kết của luận án như sau: “Định nghĩa tình liên đới: điều có thể làm,
nên làm hay bị hạn chế?”[10].
Việc xuất bản cuốn TLHTXH năm 2004 là một cơ hội tốt để trình
bày một định nghĩa tổng hợp – thu thập sự tiến triển của GHXH trước đó, rõ ràng
và đầy đủ. Thế nhưng số 193 dành cho tình liên đới xét như một nguyên tắc đã viết
như thế này:
Tình liên đới cần được nhìn trước hết trong giá trị của
nguyên tắc điều hành các định chế, theo đó, các “cơ cấu tội lỗi” đang chi phối
những tương quan giữa các cá nhân và dân tộc, cần phải được vượt qua và biến đổi
thành những cơ cấu liên đới, nhờ việc tạo ra hoặc điều chỉ những luật pháp, quy
luật thị trường, pháp chế (TLHTXH 193).
Đoạn văn này không thể coi như một định nghĩa chính xác, mà
chỉ thu thập những gì mà các văn kiện Huấn quyền đã nói về vai trò của nó[11];
nói cách khác, xem ra đây là sự mô tả kết quả của tình liên đới
là định nghĩa bản tính của nó[12].
Vì những lý do mà chúng tôi sẽ nêu lên, thiết
tưởng việc phát biểu thận trọng của GHXH đòi hỏi một định nghĩa chính xác và
hoàn chỉnh hơn về tình liên đới như một nguyên tắc. Mục tiêu của bài này, một
đàng, muốn góp phần vào việc định nghĩa bẳng việc ôn lại tiến trình lịch sử,
đàng khác, nêu bật rằng việc định nghĩa rõ ràng nguyên tắc này là điều quan trọng.
Để đạt được mục tiêu ấy, chúng tôi sẽ trở về nguồn gốc của
nguyên tắc tình liên đới trong GHXH, với một tiến trình rất phức tạp[13].
Chúng tôi dành phần thứ nhất của bài viết cho công cuộc này. Điều này giả thiết
phải đi sâu vào các khoa học xã hội, là nơi bắt nguồn nguyên tắc liên đới. Sau
khi đã duyệt lại nguồn gốc và sự tiến triển của nguyên tắc, chúng ta sẽ có điều
kiện để nhận xét về sự phát biểu nó, và đưa ra đề nghị về việc định nghĩa và giải
thích nguyên tắc dưới ánh sáng của GHXH. Cuối cùng chúng tôi sẽ rút ra những kết
luận đã đạt được nhờ cuộc khảo cứu này.
2. Những nguồn gốc của
nguyên tắc tình liên đới
Như đã nói, nguồn gốc của nguyên tắc tình liên đới trong GHXH rất phức
tạp bởi vì lịch sử của khái niệm tình liên đới còn phức tạp hơn nữa[14]. May thay, đã có nhiều công trình nghiên
cứu cho phép chúng tôi trình bày tổng lược và nêu lên những điểm xem ra quan trọng
hơn cả[15].
a) Cổ luật Rôma
Từ ngữ “liên đới” bắt nguồn từ phạm vi luật
pháp, cụ thể là cổ luật Roma, trong đó có hình thức nghĩa vụ in solidum, theo đó một nhóm con nợ tự mình ràng buộc
với nhau bằng một nghĩa vụ và họp thành một đơn vị bất phân chia; do đó mỗi con
nợ đều buộc phải trả tất cả món nợ, chứ không chỉ một phần riêng của mình[16].
Như thế, ngay từ đầu,
khái niệm liên đời đã bao gồm ý tưởng hợp nhất (ở đây là giữa các con nợ).
b) Thuyết liên đới của triết học xã hội Pháp
Bước chuyển tiếp từ lãnh vực pháp lý sang lãnh vực triết lý xã hội xảy
ra bên Pháp vào thế kỷ XIX, vào buổi giao thời giữa xã hội học và triết lý xã hội. Một đàng, từ thế kỷ XVII, ở Pháp, thuật
ngữ “liên đới” đã được dùng trong phạm vi luật pháp để nói đến trách nhiệm
chung về những món nợ đã mắc[17].
Đàng khác, người ta
cho rằng ông Pierre
Leroux (1797-1871), một
triết gia chính trị tại Paris theo học thuyết xã hội không tưởng, là người đã gắn
cho sự liên đới một ý nghĩa triết học và luân lý xã hội[18].
Ông Leroux vừa muốn tránh chủ
nghĩa cá nhân của phái tự do vừa muốn tránh chủ nghĩa xã hội khoa học muốn cho
cá nhân tan biến trong tổng thể xã hội. Năm 1840, ông Leroux đưa ra khái niệm “tình liên đới nhân bản”[19],
đế chống lại Kitô giáo, bởi vì ông muốn cho nó thay thế đức bác ái: tình liên đới
sẽ là phương thức mới để giải quyết các vấn đề xã hội một cách hợp lý và hữu hiệu[20].
Với khái niệm tình liên đới, ông Leroux muốn tìm ra một hướng tổng hợp nêu bật mối dây nội tại liên kết tất
cả nhân loại, tương tự như mối đây liên kết mẹ với con, và dẫn tới việc quan
tâm đến những người khác[21].
Trong lãnh vực xã-hội-học, Auguste Comte và Emile Durkheim đã sử dụng
từ “liên đới” theo nghĩa riêng của ngành mình mang tính cách thực chứng[22]. Năm 1839, Comte dùng từ này để ám
chỉ sự kiện lệ thuộc hỗ tương trong các một tương quan giữa các chủ thể xã hội[23]. Durkheim dùng nó vào năm 1893 khi phân
biệt sự “liên đới máy móc”, hệ tại sự gắn bó dựa trên các giá trị, mục tiêu hoặc
quy tắc tựa như lương tâm tập thể áp đặt trên mỗi cá nhân, và sự “liên đới hữu
cơ”, là một sự gắn bó liên kết các phần tử của một xã hội, qua sự thỏa thuận và
phân chia việc làm, họp nên một cơ thể trong đó có những chức vụ và công tác
khác nhau[24].
Hình thức thứ hai này là đặc điểm của xã hội công nghệ.
Ông Léon Bourgeois
(1825-1925), một nhà chính trị và nghị sĩ của đảng xã hội cấp tiến, là người
mang lại một áp dụng cụ thể cho khái niệm này. Trong tác phẩm Solidarité (1896), ông đã chuyển đưa sự liên đới từ một dữ kiện (mối
dây lệ thuộc ràng buộc mọi người với nhau) sang một nghĩa vụ luân lý[25]. Ông Bourgeois được xem như cha đẻ của học thuyết liên đới
(solidarisme) xét như một lý thuyết
xã hội, xây dựng nền tảng lý thuyết và mang ra áp dụng trong lãnh vực luân lý
xã hội[26]. Dù vậy, Bourgeois nhìn nhận rằng ông mắc
món nợ ý tưởng đối với Charles Gide (1847-1932) về kinh tế, Alfred Fouillée
(1938-1912) về triết học và Célestin Bouglé (1870-1940), một cộng sự viên của
Durkheim[27].
Xét vì tầm quan trọng của ông Bourgeois, thiết tưởng nên nói
thêm về tư tưởng của ông. Đối với Bourgeois, tình liên đới phát
xuất từ việc nhận biết nghĩa vụ luân lý mà mỗi người mắc nợ với xã hội, bởi vì
nếu không có xã hội thì ta sẽ thiếu rất nhiều điều và nhờ xã hội mà ta được hưởng
nhờ những tiện ích và nỗ lực của các thế hệ trước[28]. Nghĩa vụ này phát sinh ra một món nợ, mà
Bourgeois diễn tả như là một bán khế ước, một
nghĩa vụ pháp lý phải bù đắp kinh tế về phía những người có nhiều của cải để trợ
giúp những người kém may mắn, nhằm thực hiện công bình xã hội, được hiểu như là
sự thăng bằng xã hội bù đắp những sự chênh lệch nhờ một việc phân phối tài sản
được giao cho Nhà Nước.[29].
Một cách cụ thể, ông bênh vực việc nộp thuế “để trang trải những nghĩa vụ cốt yếu
phát sinh cho mỗi người chúng ta do tình liên đới xã hội”[30].
Luật thiết định có nhiệm vụ nhìn nhận món nợ của mỗi người và xác định số lượng
dựa trên những dịch vụ mà họ đã nhận được[31]. Một
khi đã trả xong món nợ ấy, mỗi người được coi là thong dong[32],
và những sự khác biệt khác nữa được xem như là kết quả của việc sử dụng
những tài năng tự nhiên mà mỗi người nhận được[33].
c) Học thuyết liên đới Kitô giáo bên Đức
Trên đây là một vài ghi nhận về nguồn gốc của thuật ngữ “tình
liên đới” và ý nghĩa của nó. Bằng cách nào thuật ngữ này được chuyển từ lãnh vực
triết học và xã hội học sang lãnh vực thần học, và cụ thể là GHXH?
Về phương diện này, cũng đã có nhiều nghiên cứu về việc sử dụng
từ ngữ trong huấn quyền xã hội cho tới một thời điểm nào đó[34].
Khảo cứu rộng rãi và chi tiết hơn cả là của linh mục Eros Monti. Tiếp theo đây,
chúng tôi xin trình bày tổng hợp những kết quả của Monti, thu thập các thông
tin từ triều đại của ĐGH Lêô XIII cho đến ĐGH Gioan XXIII[35].
Giai đoạn này rất quan trọng cho việc suy tư về việc định nghĩa tình liên đới ở
cuối bài viết.
Bản văn đầu tiên nhắc đến “liên đới” cách minh thị là thông
điệp Summi pontificatus của ĐGH
Piô XII khai mạc triều đại của ngài năm 1939. Mặc dù kể từ ĐTC Lêô XIII, ta có
thể gặp thấy những đoạn văn diễn tả ý tưởng cách ám tàng, chẳng hạn như: tinh
thần hợp nhất huynh đệ giữa loài người, được xây trên một mối dây chung về nguồn
gốc và vận mạng, hoặc về bản tính tự nhiên và ân sủng[36];
hoặc một trật tự xã hội hợp nhất nảy sinh từ nhiều yếu tố và đòi hỏi một mối
dây hợp tác chặt chẽ để đạt đến thiện ích chung[37].
Để có thể hiểu được việc du nhập khái niệm này vào huấn quyền
cách mặc nhiên hoặc minh nhiên cũng như sự tiến triển của nó, ta cần phải sang
nước Đức. Cũng như trước đây, bên Pháp có “thuyết liên đới” thì bên Đức cũng có
một học thuyết xã hội về sau sẽ mang tên là “học thuyết liên đới Kitô giáo” được
hình thành bởi một nhóm triết gia và thần học gia Dòng Tên. “Học thuyết liên đới”
này được thành lập bởi Heinrich Pesch
(1854-1926), một nhà triết học xã hội và kinh tế học, và được tiếp nối bởi Oswald von Nell-Breuning (1890-1991) và Gustav Gundlach (1892-1963),
nhằm trở thành một triết học xã hội phù hợp với đức tin, điều chỉnh những sai lầm
của thuyết tập thể của Marx và thuyết tự do cá nhân chủ nghĩa. Dĩ nhiên, học
thuyết liên đới này cũng chịu ảnh hưởng của thuyết liên đới bên Pháp[38],
nhưng
khác ở chỗ là nó dựa trên triết học tân kinh viện và cũng am tường tư tưởng xã
hội công giáo của thời ấy, cách riêng chịu ảnh hưởng của Đức cha William E. von Ketteler
(1811-1877), giám mục Mainz và nhân vật then chốt để hiểu được những yếu tố cốt
yếu của GHXH sau này.
Theo Pesch, chủ nghĩa liên đới là hệ thống xã hội nhìn nhận
giá trị của tình đoàn kết liên đới giữa con người với nhau, xét như là các cá
thể hay như là các phần tử của các cộng đồng tự nhiên như gia đình và quốc gia[39].
Theo nhãn giới của “học thuyết liên đới Kitô giáo” được kiện toàn
bởi Nell-Breuning và
Gundlach, nền tảng của trật tự xã hội là vị trí ưu việt dành cho nhân vị, có
tương quan với xã hội (nguyên tắc liên đới: solidaridad),
đi kèm với nguyên tắc bổ trợ (subsidiaridad),
nhằm phát triển nhân vị. Nhờ các nguyên tắc liên đới và bổ trợ - được coi là
quy tắc rường cột của xã hội, mà hai chiều kích xã hội và cá thể của nhân vị được
củng cố.
Nguyên tắc liên đới là chìa khóa của hệ thống này: nó mang
tính cách cấu trúc và định hướng; còn nguyên tắc bổ trợ xác định những trách
nhiệm. Đối với Pesch, nguyên tắc liên đới có hai chiều kích: một là tổ chức xã
hội được hiểu như một cơ quan sống động (chứ không phải là một đống các nguyên
tử) được liên kết do nguyên tắc quyền bính để hướng dẫn hoạt động của các phần
tử về mục đích của toàn thể; hai là chiều kích luân lý, tức là sự liên kết giữa
những con người tự do, mỗi người có một mục đích riêng, nhưng tự mình không đủ
khả năng để đạt được. Từ đó nảy ra một mối dây mang tính nghĩa vụ luân lý, bởi
vì các cá thể được liên kết nhau với bằng tình liên đới nhằm đạt tới điều thiện
chung do đức công bình, và điều thiện riêng cho đức bác ái. Về sau,
Nell-Breuning định nghĩa nguyên tắc tình liên đới như thế này: “cá nhân tự
bản tính được hướng tới xã hội, và đối lại, xã hội được hướng tới cá nhân”[40].
Ai cũng biết ảnh hưởng của Nell-Breuning cũng như của Gundlach đối với các văn kiện xã hội của hai vị
giáo hoàng Piô XI và Piô XII[41].
Như Nell-Breuning đã nói, “các ý tưởng chính của thông điệp “Quadragesimo
anno” (1931) và cách riêng hình ảnh về xã hội mà thông điệp vạch ra
mang tính cách liên đới”[42].
Đàng khác, bàn tay của Gundlach luôn in dấu trên hầu hết các văn kiện quan trọng
của ĐTC Piô XII liên quan đến vấn đề xã hội[43].
Sau khi đã nghiên cứu tỉ mỉ vấn đề, Monti đi đến kết luận là “kể từ hai triều
giáo hoàng Piô XI và nhất là Piô XII, các nội dung và đường hướng liên đới đã
đi vào giáo huấn xã hội của Giáo hội, và sau đó chúng được phát triển biệt lập”[44].
Mặc dù vậy, chính Nell-Breuning đã muốn phân biệt GHXH với “học thuyết liên đới:
cái nhìn nhân bản của học thuyết liên đới và những hệ luận của nó cũng giống
như GHXH là một chuyện; sự đồng hóa học thuyết liên đới với GHXH là một chuyện
khác[45].
Xét vì ảnh hưởng của Gundlach đối với các văn kiện xã hội của
ĐTC Piô XII và xét vì trong văn kiện đầu tiên của GHXH (tức là thông điệp Summi Pontificatus của ngài), tình liên đới
được minh thị nhắc đến như là “luật”, chúng tôi muốn trình bày vài khái niệm
căn bản của cha Gundlach liên quan đến liên đới.
Đối với vị giáo sư triết học xã hội ở đại học Gregoriana,
tương quan giữa cá thể với xã hội là một yếu tố nội tại, nguyên thủy và cấu
thành của nhân cách[46].
Nhân loại chỉ có một, nhưng nó được biểu lộ cách cụ thể trải qua dòng lịch sử,
tuy vẫn duy trì một sự thống nhất nội tại:
Trong trật tự hiện tại của ân sủng và cứu độ, ‘nhân loại’
xét như là cộng đồng ân sủng, và ‘nhân loại’
xét như là cộng đồng văn hóa, họp thành một
đơn vị cụ thể; vì thế không thể nào chấp nhận sự gom lại tôn giáo và thế giới,
ân sủng và văn hóa, đời sống tâm linh và hoạt động, đời này và đời sau, vào các
phạm trù phương tiện và cứu cánh. ‘Nhân loại’ hiện hữu cách cụ thể là một ‘nhân
loại duy nhất’[47].
Trong khung cảnh này, tình liên đới là “một điều kiện hữu thể,
một nguyên tắc cấu trúc của sự hợp nhất của mọi người sống trong và với xã hội”[48].
Gundlach định nghĩa tình liên đới, xét như nguyên tắc hữu thể (tương ứng với đặc tính xã hội của
con người), là “sự hợp nhất của đời sống chung”[49]. Nhưng nguyên tắc này cũng có một chiều kích luân lý, xét như nguyên lý
quy phạm cho đời sống xã hội, có trước mọi pháp luật chế định, thậm chí có trước
mọi hình thức kết đoàn cụ thể, như là điều kiện hiện hữu của ‘xã hội’ đối với
cá thể[50].
Gundlach đồng hóa tình liên đới với “công bình xã hội, và coi nó như động lực
nhằm thực thi các tương quan pháp lý giữa con người với nhau, được thể hiện qua
ba hình thức công bình pháp định, phân phối và giao hoán[51]. Thiết nghĩ khi móc nối tình liên đới với
công bình xã hội, Gundlach lại gây thêm khó khăn cho việc định nghĩa tình liên
đới, bởi vì các tác giả vẫn còn tranh luận về bản chất của khái niệm công bình
xã hội. Theo Monti, Gundlach hiểu công bình xã hội như là nhân đức xã hội trọn
hảo nhất, bởi vì nó nhắm tới thiện ích chung, cũng tựa như đức công bình tổng
quát hoặc pháp định, nhưng phần nào cũng khác biệt. Theo lời của Gundlach:
Tương ứng với
nguyên tắc hữu thể và pháp lý của thuyết liên đới là một hình thái riêng của đức
công bình: công bình xã hội. Công bình xã hội không tương ứng với ba hình thức
của đức công bình, vì mỗi hình thức này chỉ nhắm tới một tương quan trong cộng
đồng mà thôi. Công bằng xã hội, bởi vì nó liên quan tới sự kết hợp liên đới,
cho nên bao gồm cả những quyền lợi của các cá nhân lẫn quyền lợi của cộng đồng[52].
Sau cùng, Gundlach coi đời sống chung của con
người trong và với cộng đồng như là một sự thống nhất, trong đó có sự kết hợp
giữa ‘ý tưởng’ và ‘tiện ích’, tự lập và thuộc về, lợi ích cá nhân và phục vụ, những
đòi hỏi của sự an lạc của mọi người và sự đòi hỏi của việc hội nhập cá nhân vào
trật tự khách quan”[53].
d) ĐTC Piô XII. Thông điệp Summi Pontificis
Sau khi ôn lại bối cảnh lịch sử như vậy, chúng ta đi đến số
28 của thông điệp Summi Pontificatus
(SP) của ĐTC Piô XII, nơi mà lần đầu tiên xuất hiện trong huấn quyền thuật ngữ
“liên đới”, dưới
hình thức của một “luật”:
Luật liên đới hỗ tương và bác ái bắt nguồn từ chỗ mọi
người có một nguồn gốc chung và có cùng một bản tính có lý trí như nhau, cho dù
họ thuộc về dân tộc nào đi nữa, và bắt nguồn từ hy lễ cứu chuộc mà Đức Giêsu
Kitô đã dâng lên Chúa Cha trên cây thập giá, cho nhân loại tội lỗi[54].
Khi phân tích toàn bộ giáo huấn của Đức Piô XII, luật ấy hướng
dẫn một trật tự xã hội được mô tả rõ nét hơn là huấn quyền trước đó: một trật tự
dựa trên căn bản là nhân vị, là tác nhân, nền tảng và cùng đích của xã hội[55];
một trật tự hướng đến thiện ích chung và giữ quân bình giữa sự hợp nhất và ăn
khớp của xã hội. Tình liên đới được coi như “luật” thuộc trật tự tự nhiên, được
diễn tả ra bằng sự hợp tác và trợ giúp trong mọi lãnh vực đời sống, cũng như
trong những cuộc thay đổi các thể chế kinh tế, xã hội và pháp lý[56].
Trong nhiều văn kiện và sứ điệp truyền thanh, Đức Piô XII đề cập đến những sự bảo
đảm cần có trong một xã hội liên đới: tự do sáng khởi kinh tế, sở hữu tư nhân
các phương tiện sản xuất, tổ chức đối thoại giữa các thành phần xã hội khác
nhau, và sự điều hành đời sống xã hội nhờ sự can thiệp chừng mực của Nhà Nước[57].
Dưới triều đại ĐGH Gioan XXIII, trong bối cảnh toàn cầu hóa vấn đề xã
hội, chúng tôi ghi nhận từ “liên đới” xuất hiện trong thông điệp Mater et Magistra (MM)[58] như là một mối dây liên kết tất cả mọi
người thành một gia đình duy nhất (MM
157). Tình liên đới nhân loại và tình huynh đệ Kitô giáo” đòi hỏi rằng
các dân tộc phải tích cực giúp đỡ lẫn nhau” (MM 155). Cách riêng,
Nó đòi hỏi những quốc gia được hưởng tài nguyên kinh tế
phong phú không được phép thờ ơ trước những nơi mà người dân, chịu đàn áp với
vô số những khó khăn nội bộ, đã bị kiệt quệ vì đói kém lầm than và không được
hưởng những quyền lợi nền tảng của con người (MM 157)[59].
e) ĐTC Phaolô VI. Thông điệp Populorum progressio
Với ĐGH Phaolô VI, GHXH nhấn mạnh đến một bổn
phận đi kèm theo nguyên tắc liên đới. Người ta nói rằng sau công đồng Vaticanô
II, và cách riêng với ĐGH PhaolôVI, GHXH đã có khuynh hướng tiến tới thuyết
“bình đẳng hóa” (egalitarianism),
được hiểu như là một nỗ lực của tình liên đới nhắm giảm bớt những chênh lệch
gây ra bởi hệ thống kinh tế[60]. Nếu đúng như vậy thì ta cần nghiên cứu đề
tài này trong thông điệp Populorum
progressio (PP) số17:
Mỗi cá thể của loài người là thành phần của xã hội,
thuộc về toàn thể nhân loại. Và không chỉ ông nọ bà kia nhưng tất cả mọi người
đều được mời gọi đến sự phát triển đầy đủ [...]. Được kế thừa từ các thế hệ trước và
được hưởng nhờ công sức của những người đương thời, chúng ta mắc nợ với hết mọi
người và chúng ta không thể nào làm ngơ đối với những người sẽ đến làm tăng
thêm gia đình nhân loại. Sự liên đới phổ quát là một dữ kiện và phúc lộc cho tất
cả mọi người, đồng thời cũng là một nghĩa vụ.
Thoạt tiên, xem ra đoạn văn gợi lên tư tưởng của Léon
Bourgeois, một người chuyển từ tình liên đới như một dữ kiện sang tình liên đới
như một nghĩa vụ, do món nợ mắc với các thế hệ đi trước. Đối với Bourgeois, đây
là một món nợ - một bán khế ước – còn đối với Đức Phaolô VI, nó là một nghĩa vụ
luân lý không chỉ với những người đương thời mà còn với các thế hệ tương lai nữa.
Sự phát triển toàn diện dưới viễn ảnh Kitô giáo
là một sự phát triển liên đới; đây là tựa đề của phần thứ hai của thông điệp PP.
Sự phát triển toàn diện con người không thể nào có được
nếu không có sự phát triển liên đới của nhân loại [...] Con người cần phải gặp gỡ con người, các quốc gia cần
phải gặp gỡ nhau như những người anh chị em, như những con cái Chúa. Trong sự
hiểu biết và thân nghĩa với nhau, trong sự hiệp thông thánh thiêng ấy, chúng ta
cần phải bắt đầu hành động để xây dựng tương lai chung của nhân loại (PP 43).
Hệ quả của lối đặt vấn đề như thế là một nghĩa vụ sống tình
huynh đệ nhân bản và siêu nhiên giữa các dân tộc, đặc biệt liên quan đến những
người may mắn hơn, và có ba khía cạnh:
Nghĩa vụ liên đới, trong việc giúp đỡ mà những nước
giàu phải đem đến cho các nước đang phát triển; nghĩa vụ công bình xã hội, điều
chỉnh những tương quan thương mại lệch lạc giữa các dân tộc mạnh và yếu; nghĩa
vụ bác ái phổ quát, để cổ võ một thế giới nhân đạo hơn cho tất cả mọi người,
trong đó mọi người đểu phải cho và nhận (PP 44).
Xét như nghĩa vụ, sự liên đới
được diễn tả qua việc những người may mắn hơn giúp đỡ những người kém may mắn,
và qua sự công bình xã hội trong các tương quan thương mại. Về điểm này ta thấy
rằng giáo huấn của PP không phải là sự nối dài quan điểm của Bougeois, bởi vì ông
này giải quyết món nợ liên đới bằng sự bù đắp kinh tế (thuế má), được ủy thác
cho Nhà Nước để tái phân phối của cải, chứ không đi tới chuyện “các nước giàu
phải đến giúp đỡ các người đang phát triển” (PP 44).
Thực ra, ảnh hưởng gần gũi đối với PP là cha Louis-Joseph Lebret, một linh mục Dòng Đa Minh người Pháp, và
ảnh hưởng gián tiếp là François Perroux, một nhà kinh tế người Pháp. Chúng ta biết
rằng cha Lebret đã giữ vai trò căn bản trong việc soạn thảo thông điệp Populorum progressio[61]..Tác phẩm Dynamique concrète du développement [62] của
cha (với ảnh hưởng của Perroux) phảng phất trong toàn thể thông điệp (thậm chí
nó được trích dẫn ở một chú thích).
Vào năm 1942, cha Lebret và ông Perroux, cùng với
một số người khác, đã thành lập hiệp hội “Économie et Humanisme”.
Năm 1959, cha Lebret ký tên vào bài viết tựa đề “Manifeste pour une civilisation solidaire” (Tuyên ngôn cho một
nền văn minh liên đới)[63]
đăng trên tờ báo mang tên của hiệp hội, thu thập công trình
của một nhóm nghiên cứu (gồm các kỹ thuật gia, nhà tư tưởng, những nhà hoạt động),
dựa theo tinh thần Phúc Âm[64]. Bản “Tuyên ngôn” này chỉ dùng từ ngữ
liên đới, nhưng không giải thích ý nghĩa của nó[65].
Tác giả phân tích thuyết tư bản, thuyết cộng sản và xã hội, và tố cáo tính cách
duy vật của tất cả, và tìm cách đưa ra một đề nghị để vượt qua một cái nhìn duy
vật về thế giới và kinh tế. Tác giả đề nghị thực thi một “chế độ kinh tế xã hội
toàn diện và nhân vị toàn diện [...] với mục tiêu là ‘thăng tiến toàn thể
con người’, nghĩa là nói theo François Perroux, của ‘tất cả con người’ và của ‘tất cả mọi người’”[66].
Nên ghi nhận châm ngôn cuối cùng này, bởi vì nó sẽ được lấy lại ở số 14 của PP
14 và coi như đặc
trưng của quan điểm về sự phát triển theo GHXH[67].
Khi đề cập đến việc thể hiện điều thiện ích chung, bản “Tuyên
ngôn” chủ trương biến đổi “chủ nghĩa cá nhân thành tình liên đới, biến đổi các
xã hội thành các cộng đồng[68].
Để được như vậy, cần thiết lập một kiểu mẫu tương quan mới giữa các quốc gia,
nhất là kêu gọi các nước được “may mắn”[69].
Trong bối cảnh này, bản Tuyên ngôn nói đến một “món nợ” về phía các nước phát
triển, và đưa ra lập luận về nền tảng của món nợ ấy như sau:
Cần phải nghĩ đến tầm quan trọng của món nợ của chúng
ta, đến trọng lượng khối vàng và những khoáng sản bị đào bới, hãy nghĩ đến thảm
cảnh của các nền kinh tế cổ truyền bị tan rã mà không có gì thay thế, hãy nghĩ
đến những người da đen bị bán làm nô lệ, hãy nghĩ đến sự ủng hộ các chế độ
phong kiến lỗi thời, những cuộc đầu cơ và những hậu quả cho các nước nghèo gây
ra bởi những cuộc đầu cơ chứng khoán trên các nguyên liệu[70].
Đối với cha Lebret, hệ quả của món nợ này sẽ là sự hợp tác
dài hạn với các nước ấy. Tác giả viết như sau: “Việc bồi thường của một thời đại
lịch sử đã cho phép Tây phương được tiến triển không thể là gì khác hơn ngoài
việc hợp tác dài hạn ngõ hầu cho phép sự tiến triển trở thành phổ quát”[71].
Có lẽ dưới ánh sáng của suy tư này, cùng với chủ đề về tình liên đới như bổn phận
đối với các nước chậm tiến đã được bàn trong thông điệp MM 157-158, ta có thể dễ
nắm bắt bối cảnh và tinh thần của sự trợ giúp được nói ở số 44 của thông điệp
PP.
Kết luận của chúng tôi như thế này: ngoại trừ một sự trùng hợp
ở số 17 của PP với một khía cạnh của ông Bourgeois (nghĩa vụ liên đới nảy sinh
bởi gia tài nhận được từ các thế hệ đã qua), không có nền tảng đầy đủ để khẳng
định ảnh hưởng của tác giả này đối với Populorum
progressio.[72]
Giả như có một ảnh hưởng nào đối với bản văn PP, thì đó chỉ là gián tiếp và qua
các bản văn huấn quyền và các tác giả công giáo sau ông Bourgeois, bởi
vì nên nhớ rằng thuyết liên đới (solidarisme)
của ông đã được Pesch sửa thành học thuyết liên đới Kitô giáo (solidarisme chrétien). Chẳng hạn như mối tương quan giữa liên đới
và công bình xã hội (PP 44) cũng được Gundlach nói đến rồi, như chúng ta đã thấy.
Để tổng hợp một định nghĩa của tình liên đới theo GHXH cho đến
năm 1978, Doran đã đề nghị như sau:
Có thể nói rằng tình liên đới là sự ràng buộc xã hội
trong và giữa các xã hội và các dân tộc, do ý thức về có chung bản tính con người
và cần tới nhau. Ý thức này cung cấp động lực để thực hiện thiện ích chúng, tìm
cách giải quyết những vấn đề của con người, nhờ đối thoại, hợp tác và phục vụ lẫn
nhau[73].
Một bước tiến đáng kể tiếp theo về tình liên đới là do bàn tay của ĐGH Gioan Phaolô II.
Theo Ratzinger, nhờ các tác phẩm của vị giáo hoàng này mà tình liên đới được hiểu
rõ và củng cố hơn trong GHXH[74].
f) ĐTC Gioan Phaolô II. Thông điệp Sollicitudo rei socialis
Trong quyển sách Nhân vị
và hành động (1969), Karol Wojtyla đối chiếu thái độ liên đới với chủ
nghĩa cá nhân, và lồng nó trong khung cảnh của điều thiện ích chung của cộng đồng
và sự tham gia vào công ích. Trong các xã hội tự nhiên hoặc “cộng đồng hiện hữu”,
dựa trên điều thiện ích chung, và tồn tại được nhờ sự liên kết với nhau, mỗi
người “mong muốn rằng [...] các hành động của mình sẽ phục vụ cộng đồng và giúp
cho cộng đồng được duy trì và phong phú”[75].
Tình liên đới là một hệ luận của việc sống và hoạt động chung với
nhau, và có nghĩa là “ý muốn bền bỉ sẵn sàng chấp nhận và thực hiện phần tương ứng
của mình trong cộng đồng – như là hệ luận của điều kiện làm phần tử của cộng đồng ấy”[76].
Theo hồng y Wojtyla, trong thái độ liên đới, cần phải luôn
duy trì mối quy chiếu về thiện ích chung”[77],
thuộc về phạm vi “hiện hữu chung với những người khác” và tạo ra những điều kiện
để sống và hành động với nhau[78].
Như thế,
mỗi người sẽ hành động không chỉ vì trông mong phần thuộc về mình, nhưng “bởi
vì tiên vàn đặt ra trước mắt điều thiện của toàn thể; họ hành động vì thiện ích
chung. Ý thức về thiện ích chung giúp cho họ biết nhìn xa hơn cái phần cụ thể của
mình trong cộng đồng, mặc dù sự quy chiếu về phần ấy giúp cho họ thực hiện phận
vụ chính yếu của mình”[79].
Như vậy đặc trưng của
tình liên đới là có cảm thức nhạy bén về các nhu cầu của cộng đoàn, khiến cho
ta nhận ra “lúc nào cần thiết, ta phải đảm nhận trách nhiệm và thực hiện nhiều
hơn là phần tương ứng với mình”[80].
Sau này, khi đã làm giáo hoàng Gioan Phaolô II, tình liên đới
trở thành một nhân đức. Trong đoạn văn quen thuộc của thông điệp Sollicitudo rei socialis số 38, nhân đức liên đới được định
nghĩa như là “ý định bền bỉ và kiên
quyết cam kết cho điều thiện chung; nghĩa là cho điều thiện của tất cả và mỗi
người, ngõ hầu tất cả mọi người thực sự mang trách nhiệm với hết mọi người”.
Vài năm sau thông điệp SRS, ĐTC Gioan Phaolô II tóm tắt
nguyên tắc liên đới, đã hiện diện cách ám tàng ngay từ đầu của GHXH cận đại,
như sau:
Nguyên tắc mà ngày nay chúng ta gọi là liên đới, mà
trong thông điệp Sollicitudo rei socialis,
tôi đã nhắc đến giá trị của nó, trong trật tự nội bộ của mỗi quốc gia cũng như
trong trật tự quốc tế, là một trong những nguyên tắc nền tảng của quan điểm
Kitô giáo về việc tổ chức đời sống chính trị xã hội. ĐGH Lêô XIII đã nhắc đến
nó nhiều lần dưới tên gọi là “tình thân hữu” mà ta đã gặp thấy trong triết học
Hy lạp; ĐGH Piô XI gọi nó bằng danh xưng đầy ý nghĩa là “bác ái xã hội”, còn
ĐGH Phaolô VI mở rộng khái niệm cho phù hợp với những chiều kích đa dạng của vấn
đề xã hội, và đặt tên là “văn minh tình thương” (thông điệp Centesimus annus 10).
Sau cùng vào năm 1992, Sách GLCG đã dành một đoạn cho “tình
liên đới nhân loại” dựa trên giáo huấn của ĐGH Piô XII[81].
Trích dẫn bản văn thông điệp Summi
Pontificatus số 28, nguyên tắc tình liên đới được mô tả như là một
đòi hỏi của tình huynh đệ nhân bản và Kitô giáo[82].
Trong số những hệ luận của nguyên tắc này, Sách GLCG kể ra trước hết là sự phân
phối của cải và việc trả lương lao động, nỗ lực cho một trật tự xã hội công
bình hơn, ngõ hầu giải quyết tốt đẹp những mối căng thẳng không thể tránh được,
cũng như sự đòi hỏi tình liên đới quốc tế giữa các lãnh vực khác nhau để giải
quyết những vấn đề kinh tế xã hội[83].
Tình liên đới cũng được coi như một nhân đức, nhưng theo chiều
kích thiêng liêng hơn là theo ý nghĩa được nói ở số 38 của thông điệp Sollicitudo rei socialis số 38[84].
Sau khi đã rảo qua một vòng lịch sử về sự tiến triển của khái
niệm, bây giờ chúng ta có thể đi vào vấn đề định nghĩa nguyên tắc tình liên đới.
3. Sự khó khăn và tầm
quan trọng của định nghĩa rõ ràng nguyên tắc tình liên đới trong GHXH
Một định nghĩa rõ ràng và chính xác về nguyên tắc tình liên đới
là điều quan trọng vì ít là hai lý do. Thứ nhất, điều tối thiểu mà ta có thể
yêu cầu trong một hệ thống luân lý là các nguyên tắc cần phải được xác định rõ
ràng. Điều này được gói ghém trong bản chất “phát biểu thận trọng” của GHXH. Đối
với nguyên tắc phẩm giá con người (hoặc đặt nhân vị làm trung tâm) thì không
nghi ngờ gì đáng kể; nguyên tắc hỗ trợ cũng vậy; thế nhưng, nguyên tắc tình
liên đới thì không có định nghĩa rõ ràng. Bản văn gần nhất, tức là Sách TLGHXH
không đáp ứng với sự tiến triển lịch sử của nguyên tắc tình liên đới.
Lý do thứ hai là việc nghiên cứu lịch sử mà
chúng tôi đã trình bày vắn tắt cho thấy rất khó đưa ra một định nghĩa. Vào lúc khởi nguyên của nguyên tắc
liên đới, có nhiều trào lưu khác nhau và đồng thời cũng chi phối lẫn nhau. Tất
cả đều được soạn thảo từ những tiền đề triết học, chính trị và xã hội cụ thể:
có những tiền đề phát xuất từ bối cảnh đức tin và suy tư thần học; có những tiền
đề khác nằm bên ngoài và thậm chí chống lại đức tin. Xét vì nó có liên quan đến
những vũ trụ quan bị thế tục hóa, nguyên tắc liên đới đã gặp sự phản đối nơi
vài nhóm Kitô hữu. Có người dùng tình liên đới để tránh nói đến “hiệp thông”,
nó muốn nói đến sự giúp đỡ mà không buộc phải yêu thương kẻ lãnh nhận; nó giả
thiết một tình liên đới phổ quát không cho phép đón nhận tình nghĩa tử của Chúa
Cha trao ban qua cái chết của Con Ngài[85]. Bối cảnh này đã làm ngăn trở việc nhìn
nhận căn tính Kitô giáo của tình liên đới. Đây cũng là một lý do nữa để đòi hỏi
phải có một định nghĩa nguyên tắc tình liên đới trong GHXH. Chúng ta hãy đi sâu
vào chi tiết hơn.
“Học thuyết liên đới” của Pháp và “học thuyết liên đới Kitô
giáo” là hai lý thuyết xã hội có liên quan với nhau nhưng lại khác biệt nhau.
Trong “học thuyết liên đới” của Pháp có một thứ tình liên đới muốn thay thế cho
Kitô giáo và đức bác ái, tuy vẫn hướng đến khía cạnh luân lý xã hội. Việc quan
tâm đến những người bất hạnh là một điểm chung với Kitô giáo, tuy vậy, cần phải
làm sáng tỏ ý tưởng, vì thế, chúng tôi xin trưng dẫn một thí dụ.
Trong một bài nghiên cứu năm 2005 về ý tưởng tình liên đới ở
châu Âu, ông Stjernø kết luận rằng định
nghĩa phong phú nhất của tình liên đới là “sẵn sàng chia sẻ các tài nguyên cho
tha nhân nhờ việc đóng góp cá nhân với những người gặp khó khăn túng thiếu và
nhờ thuế vụ và sự tái phân phối do Nhà Nước tổ chức”[86].
Phần cuối cùng của quan niệm về tình liên đới rất gần với tư tưởng của ông Léon
Bourgeois, cha đẻ của học thuyết liên đới nước Pháp. Phương thức tình liên đới
ngang bằng với việc tái phân phối của cải trao cho Nhà Nước nằm trong tư tưởng
của ông Léon Bourgeois và những tác giả khác thuộc cùng một đường hướng
chính trị; nhưng GHXH còn đi xa hơn ý tưởng tái phân phối. Tình liên đới chính trị xã hội có ý nghĩa
riêng của nó nhưng không hoàn toàn đồng nghĩa với tình liên đới Kitô giáo.
Tình liên đới Kitô giáo phải được diễn tả ra bằng
những hình thức giúp đỡ những người túng thiếu, những người bị loại trừ hoặc có
nguy cơ bị loại trừ, bằng nghĩa vụ trả thuế công bình và bằng những hình thức
tái phân phối khác. Việc theo đuổi thiện ích chung đòi hỏi những điều ấy. Tuy
nhiên sử dụng khái niệm liên đới trong bối cảnh của GHXH, thì cần lưu ý thanh lọc
nó khỏi những lý thuyết hay chủ trương chính trị, tựa như Bourgeois và các tác
giả khác: học thuyết của họ có những yếu tố chân lý nhưng cũng có những điểm
đáng ngờ vực. Nên lưu ý là các tác giả công giáo như Pesch, Nell-Breuning và Gundlach đã cẩn thận phân
biệt học thuyết “liên đới Kitô giáo” của họ với GHXH. GHXH dựa trên các khoa học
xã hội và thu nhận những gì đúng của họ, nhưng cũng cần phân biệt những quan niệm
khác nhau về tình liên đới, chẳng hạn như ta thấy trong kết luận của Stjernø, xem ra chỉ dừng lại ở “học thuyết liên đới” vào thuở ban đầu. Nguy cơ cho
người nghiên cứu nguyên tắc liên đới trong GHXH là chỉ hạn chế nó vào việc tái
phân phối kinh tế được ủy thác cho Nhà Nước. Nhưng đó có phải là cốt yếu của
tình liên đới không?
4. Thử đề nghị một định nghĩa
Nhìn lại toàn thể các văn kiện tiêu biểu nhất của GHXH và dưới
ánh sáng của quan niệm về tình liên đới như nhân đức và nghĩa vụ, chúng tôi
nghĩ là có một bản văn khá gần với một định nghĩa nguyên tắc tình liên đới,
cách cô đọng rõ ràng, tuy chưa trọn vẹn. Đó là số 73 của huấn thị Libertatis conscientia (viết tắt LC 1986)[87],
không mấy khi được nhắc đến khi giải thích nguyên tắc liên đới[88], nhưng lại rất ăn khớp với tư tưởng của Karol Wojtyla. Bản văn này, được lồng trong khung cảnh trình bày ba nguyên
tắc căn bản của GHXH, viết như sau: “Do nguyên tắc này, con người phải đóng góp
cùng với đồng loại vào thiện ích chung của xã hội, ở tất cả mọi cấp độ” (LC
73).
LC 73 được dùng làm nền tảng cho định nghĩa
tình liên đới như là nhân đức sẽ được SRS 38 lấy lại một năm sau đó. Kiên trì
hành động theo nguyên tắc liên đới sẽ phát sinh tâm tình kiên định vững bền cam
kết cho điều thiện ích chung, cảm thấy mình có trách nhiệm đối với mọi người.
Tuy nhiên, để trở thành một định nghĩa trọn vẹn của nguyên tắc tình liên đới, bản
văn LC 73 cần thêm lý do của nghĩa vụ luân lý này, và có lẽ cũng cần thêm chiều
kích cộng đồng hoặc định chế, tuy rằng nó đã được gói ghém trong đặc tính xã hội
của mọi nhân vị rồi.
Dựa theo bản văn LC 73 và lưu ý đến các bản văn khác của huấn quyền, chúng tôi đề nghị định
nghĩa và giải thích nguyên tắc liên đới như thế này:
Mỗi người — và một cách tương tự như vậy, mỗi cộng đồng—, do bởi có chung nguồn gốc, phẩm giá và vận mạng, phải góp phần với
anh chị em của mình vào thiện ích chung của xã hội ở hết mọi cấp (xc. RN 20; SP
28-29; LC 73).
Nguyên tắc này bảo vệ những điều thiện hảo của sự hợp
nhất trong đời sống xã hội và sự bình đẳng của các phần tử, và chống lại các
hình thức khác nhau của cá nhân chủ nghĩa. Xã hội là một cộng đồng các nhân vị,
họ được hưởng sự bình đẳng cơ bản do phẩm giá của mình, nhưng được mời gọi góp
phần vào việc kiện toàn tất cả mọi người và mỗi người qua việc mang lại sự giúp
đỡ và sáng kiến riêng tư của mình. Hệ quả là nguyên tắc tình liên đới được diễn
tả qua việc phân phối các của cải vật chất và thiêng liêng, - tuy những của cải
thiêng liêng thì quan trọng hơn (xc. GLCG 1940, 1942 y 1948), qua sự
trợ giúp các cá nhân và cộng đồng trong tình trạng thiếu thốn, (xc. MM 155; PP 44), và qua nỗ lực
nhằm cải thiện những cách cư xử và cơ chế tội lỗi làm ngăn cản hoặc trái ngược
với việc đạt tới điều thiện ích chung (xc. TLGHXH 193; SRS 38; GLCG 2438).
Chúng tôi nghĩ rằng trong GHXH, cốt yếu của tình liên đới là
dây ràng buộc cam kết đối với điều thiện ích chung nhằm bảo vệ sự thống nhất của
gia đình nhân loại. Ta có thể nhận thấy rằng kể từ công đồng Vaticanô II, GHXH
đã nhấn mạnh đến tình liên đới được diễn tả qua việc tái phân phối tài sản hầu
san bằng những sự chênh lệch ghê tởm. Nhưng đồng thời, GHXH cũng lưu ý đến một
điều thuộc cảm thức chung, mà nếu thiếu nó thì sự tái phân phối sẽ thất bại:
Đừng nuôi ảo tưởng rằng một chính sách tái phân phối của
cải hiện có sẽ giải quyết vấn đề cách vĩnh viễn. Thật vậy giá trị của tài sản
trong một nền kinh tế tân tiến lệ thuộc tất yếu vào việc tạo ra lợi tức hiện tại
và tương lai. Vì thế, nếu muốn chiến đấu lâu dài và hữu hiệu chống lại sự nghèo
vật chất, thì việc tạo ra giá trị là điều hết sức cần thiết[89].
Dù sao, lịch sử - kể cả gần đây, chẳng hạn như ở Venezuela-
chứng tỏ rằng nếu hiểu liên đới chỉ là công cuộc tái phân phối
kinh tế được giao cho Nhà Nước, thì về trung
hạn và sau những cuộc biểu dương bề ngoài, sẽ là điều xúc phạm sâu xa đến phẩm
giá con người. Điều này trái ngược hoàn toàn với GHXH.
Kết luận
GHXH được giới thiệu như là “việc phát biểu thận trọng của kết quả một việc
suy tư chín chắn về những thực tại phức tạp của cuộc sống con người trong xã hội
[…] dưới ánh sáng đức tin và truyền thống Hội thánh” (SRS 41). Riêng về tình liên đới, bởi vì là một
khái niệm được sử dụng thường xuyên trong lãnh vực chính trị kinh tế, với những
ý nghĩa khác nhau và với một lịch sử đặc biệt, tính cách thận trọng đòi hỏi phải
phân định và làm sáng tỏ việc phát biểu nguyên tắc và những hệ quả của nó.
Nguồn gốc của sự xuất hiện và phát biểu nguyên tắc tình liên
đới trong GHXH thật là phức tạp và thú vị. Một đàng, lịch sử của nguyên tắc là
một thí dụ cho thấy mối tương quan giữa GHXH và các khoa học xã hội tiến triển
chậm chạp qua việc đón nhận sự thật chân lý tiềm tàng trong các khoa học ấy, đồng
thời cũng cần vạch ra những yếu tố một chiều và thậm chí nguy hại. Những ý kiến
tỏ ra dè dặt trong việc thu nhận khái niệm tình liên đới vào GHXH đã cho thấy sự
khó khăn trong việc đón nhận những yếu tố chân lý khi mà các sứ điệp ấy bao hàm
một thái độ thù nghịch với đức tin Kitô giáo. Đàng khác, giá trị của tình liên
đới cho thấy rằng nó đã hiện diện trong các bản văn của huấn quyền, mặc dù nó
mang những tên gọi khác nhau trải qua dòng lịch sử.
Điều quan trọng hơn nữa là vấn đề định nghĩa nguyên tắc tình
liên đới. Trước hết, quả là đáng ngạc nhiên khi thấy rằng một nguyên tắc căn bản
như thế mà lại không có một định nghĩa chính xác. Sau khi đã nghiên cứu các văn
bản của GHXH, chúng tôi đã thử đề nghị một định nghĩa và giải thích vắn tắt
nguyên tắc này cùng với những hệ luận và đỏi hỏi tổng quát của nó. Chúng tôi
nghĩ rằng cốt yếu của nguyên tắc tình liên đới nằm ở mối dây liên kết với điều
thiện ích chung nhằm bảo vệ sự thống nhất của gia đình nhân loại. Đằng khác,
khi thấy rằng trong lãnh vực chính trị có nhiều quan điểm khác nhau về tình
liên đới, chúng tôi hiểu được sự khó khăn trong việc diễn tả nó trong GHXH, bởi
vì đòi hỏi một sự phân định kỹ lưỡng để tránh nguy cơ du nhập vào GHXH những yếu
tố một chiều hoặc theo ý thức hệ.
Sau cùng, chúng tôi nghĩ rằng bài nghiên cứu này còn cần được
khai triển hơn nữa. Chính vì nguồn gốc của nguyên tắc tình liên đới rất phức tạp,
cho nên cần phải nêu bật nó có liên hệ với các nguyên tắc khác như thế nào
trong toàn bộ đức tin công giáo. Nói khác đi, cần phải nêu rõ sự liên kết giữa
các chiều kích tín lý và luân lý của đức tin công giáo, và cho thấy rằng trong
khung cảnh ấy nguyên tắc tình liên đới không thể nào thiếu được. Đó là điều mà
chúng tôi hy vọng sẽ tiếp tục trong một bài khác.
[1]
Ở đây, chúng tôi hiểu GHXH là giáo huấn của
các giáo hoàng về các đề tài xã hội.
[2]
Thư mục về vấn đề này rất dồi dào. Xc. A. Bellocq, Doctrina Social de la Iglesia. Qué es y
qué no es (Edicep-Edusc, Valencia-Roma 2012).
[3]
Xc. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo rei socialis,
30-12-1987, số
41 (AAS 80 [1988] 513-586).
[4]
Xc. G. Guitián, “La economía y las finanzas en Evangelii gaudium. Una
reflexión sobre algunas reacciones en Estados Unidos desde la Doctrina Social
de la Iglesia”, Teología y Vida 55/4 (2014)
653-680.
[5]
SRS 41.
[6]
TLHTXH 78.
[7]
ĐTC Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus annus, só 10 (AAS 83 [1991] 793-867).
[8]
Xc. M. V. Bilgrien, Solidarity. A Principle,
an Attitude, a Duty? Or the Virtue for an Interdependent World? (American University Studies, New York-Washington D.C. 1999); E.
Monti, Alle fonti
della solidarietà. La nozione di solidarietà nella dottrina sociale della
Chiesa (Dissertatio ad
Doctoratum in Facúltate Theologiae
Pontificiae Univesitatis Gregorianae: Pontificia Universitas Gregoriana, Milano
1999) 444.
[9] M. V. Bilgrien, Solidarity. A Principle, an Attitude, a
Duty?, 15: “Chưa có định nghĩa đầy đủ về sự liên đới trong các
văn kiện của Giáo hội”.
[10]
E. Monti, Alle fonti della solidarietà,
443.
[11]
Xc. SRS 36 y 38; GLCG 2438. SRS 38: “[Liên đới] không phải là một tâm tình hời
hợt đứng trước những đau khổ của biết bao người, xa lạ hay quen thuộc. [...] Nó
dựa trên sự xác tín rằng điều làm ngăn trở sự phát triển toàn diện là sự ham hố
lợi lộc và lòng khát vọng quyền lực đã được nhắc đến. Những thái độ và cơ cấu tội
lỗi ấy chỉ có thể thắng được – với ơn Chúa trợ giúp – nhờ một thái độ hoàn toàn
đối nghịch: sự hiến thân cho điều tốt của tha nhân, sẵn sàng chịu “mất mát” về
phần mình, theo nghĩa của Tin Mừng, cho tha nhân, thay vì bóc lột họ, và “phục
vụ” họ thay vì đàn áp họ để thủ lợi cho mình (xcf. Mt 10, 40-42; 20, 25; Mc 10,
42-45; Lc 22, 25-27)”.
[12]
Xc. GLCG 1940.
[13]
Đối với nguyên tắc “bổ trợ” (hay “hỗ trợ”: subsidiarity),
tuy cũng có nhiều nguồn gốc khác nhau, nhưng đỡ phiền toái hơn. Xc. Ch.
Millon-Delsol, Le principe de subsidiarité (Presses Universitaires de France,
Paris 1993); G. GuitiAn, “Subsidiaridad y lógica del don en la Caritas in veritate.
Una aproximación histórico-teológica”, in: R. Rubio de UrquÍa - J. J. Pérez Soba (eds.), La doctrina social de la Iglesia: estudios a la luz de la encíclica
“Caritas in veritate” (BAC-AEDOS, Madrid 2014) 525-550.
[14]
Những bài khảo cứu lịch sử khái niệm tình liên đới cho thấy rằng nó mang nhiều
ý nghĩa khác nhau trải qua dòng thời gian. Xc J. E. S. Hayward, “Solidarity: the social history of an idea in nineteenth century
France”, International Review of Social History 4 (1959) 261-284; 261-262; S. Stjernø, Solidarity
in Europe. The History of an Idea (Cambridge University Press, New York 2005) 2.
[15] Xem đặc biệt là E. Monti, Alle fonti della solidarietk, 532 pp.; M. V. Bilgrien, Solidarity. A Principle,
an Attitude, a Duty; E. Monti, “Solidarieta”,
in: Centro di ricerche per lo studio della dottrina sociale della Chiesa (a cura di), Dizionario di dottrina sociale della Chiesa (Vita e Pensiero, Milano 2004) 77-86; G. J. Beyer, “The meaning of Solidarity in Catholic Social
Teaching”, en Political Theology 16/1 (2014) 7-25; T. Goffi — G. Piana, “Solidaridad”, in: F. Compagnoni y otros, Nuevo diccionario de Teología Moral (Ediciones Paulinas,
Madrid 1992) 1728-1737; R. Coste, “Solidarité”, in: Dictionnaire
de Spiritualité, XIV (Beauchesne, Paris 1990) 999-1006. Dưới
phương diện chính trị xã hội: S. Stjernø, Solidarity in Europe. The
History of an Idea. Nên lưu ý là tác giả này có nhiều thiếu sót trong việc trình bày
quan điểm của Giáo hội công giáo, chẳng hạn như ông không đả động gì đến bài khảo
cứu của Monti, và cho rằng ý tưởng liên đới xuất hiện lần đầu tiên nơi Đức
Gioan XXIII (thực ra là Đức Piô XII), và chỉ dành cho thần học cận đại công
giáo tư tưởng của một tác giả.
[16]
Xc. T. Goffi, - G. Piana, “Solidaridad”, 1729.
[17]
J. E. S. Hayward, “Solidarity: the social history of an idea in nineteenth century
France”, 270.
[18] Xc. E. Monti, Alle fonti della solidarietà, 49. Tác giả cho rằng Charles Fourier
(1722-1837) đã sử dụng từ ngữ “liên đới” từ năm 1822, đế nói đến tinh thần cộng
đồng và tương trợ đối với những người túng quẫn, trong kế hoạch xã hội không tưởng
của ông. Tuy nhiên Fourier chỉ nhắc đến tình liên đới cách tính cờ chứ không
khai triển khái niệm. Đối lại ông Leroux mới sử dụng nó như một khái niệm chính
thức. Xc. S. Stjernø, Solidarity in Europe, 28.
[19]
P. Leroux, De
l’humanité, de son príncipe et de son avenir (Paris, 1840) I-II.
[20]
Xc. Ibid. C. Bouglé, “Sur les origines chrétiennes du solidarisme”,
in: Revue de Métaphysique et de morale 14 (1906) 251-264; J. Ratzinger, Eucharistia, Comunione e Solidarietà, Diễn thuyết cho Hội đồng giám mục miền
Campania (Benevento, 2/6/2002) có thể đọc trên mạng: http://www.vatican.va/roman
_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_20020602_ratzinger-eucharistic-congress_en.html.
Truy cập ngày 15/7/2019).
Khi đối chiếu tư tưởng của Leroux với quan điểm của các Kitô hữu nguyên thủy,
ông Faguet đã thốt lên: “Thật không thể tưởng tượng nổi, ông ta đã ăn cắp biết
bao ý tưởng của Kitô giáo” (C. Bouglé, “Sur les origines chrétiennes du
solidarisme”, 254).
[21] E. Monti, “Solidarietà”, 78-79.
[22]
Xc. E. Monti, Alle fonti della solidarietà, 54-61.
[23]
Xc. A. Comte, Cours de philosophie positive. IV. La partie
dogmatique de la philosophie sociale (Costes, Paris 1908).
[24]
E. Durkheim, De la division du travail social (P.U.F, Paris 1996).
[25] E. Monti, “Solidarietà”, 79.
[26]
E. Monti, Alle fonti della solidarietà, 61-66.
[27] Xc. E. Monti, Alle fonti della solidarietà, 62. Để hiểu rõ hơn
về những ảnh hưởng này, xc. C. Bouglé, “Sur les origines chrétiennes du solidarisme”.
[28]
Xc. L. Bourgeois, Solidarité (Presses Universitaires du Septentrion, Villaneuve d’Ascq 1998) 39-40; 67
(Colin, Paris 1896). Ông viết như sau : “Con người, trong suốt cuộc
đời của mình, không chỉ trở thành người mắc nợ với những người đương thời mà
còn là kẻ mắc nghĩa vụ. Con người sinh ra đã mắc nợ với hiệp hội nhân loại. Khi
bước vào hiệp hội, con người đã thông phần vào một gia tài đã được thụ tích do
tổ tiên của mình và của mọi người; khi sinh ra, nó đã bắt đầu được hưởng một số
vốn khổng lồ mà các thế hệ trước đã thu tích. Từ lâu, ông Auguste Comte đã làm
sáng tỏ vấn đề này : Khi sinh ra, chúng ta đã mắc đủ mọi thứ nghĩa vụ đối
với xã hội” (43).
[29] L. Bourgeois, “L’idée de solidarité et
ses conséquences sociales”, in : L. Bourgeois - A. Croiset (eds), Essai d’une philosophie de la solidarité (Alcan, Paris 19072)
1-119; 66; 32-33. Quyển sách thu thập những bài diễn thuyết của ông
Bourgeois kèm theo các cuộc thảo luận. Theo Bourgeois, “xét theo lý thuyết trừu
tượng, tất cả mọi người đều là con nợ ; nhưng vì là những thành viên của
hiệp hội, cho nên tất cả đều là chủ nợ. Trên thực tế, cán cân thay đổi tùy theo
mỗi người: một số người mắc nợ, một số khác đòi nợ. Chính những người này –
nghĩa là những kẻ bất hạnh – có quyền đòi xã hội trả nợ, bởi vì những người đã
được hưởng lợi bởi sự liên đới trước đó có nghĩa vụ phải trả nợ cho những người
bị thiệt hại bởi vì họ bị ngăn cản không được hưởng lợi lộc đồng đều từ sự liên
đới ấy” (L. Bourgeois, “L’idée de solidarité”,
113).
[30] L. Bourgeois, “L’idée de solidarité”, 93. Trong cùng tác phẩm ấy,
ông Dumont đặt câu hỏi : học thuyết liên đới sẽ dẫn tới đâu, và ông trả lời :
“Đến một hệ thống thuế má, hơn là đến một cuộc tái tổ chức xã hội” (76).
[31] Xc.. L. Bourgeois, Solidarité, 40.
[32] Theo Monti, ông Bourgeois cho rằng một khi người nào đã thanh toán
món nợ đối với xã hội thì người ấy có thể tiếp tục tự do tăng thêm hay giảm bớt
gia tài của mình, mà xã hội không có quyền đòi hỏi thêm nữa. Tuy nhiên, cần
thêm rằng trong một cuộc tranh luận sau đó, ông đã phần nào điểu chỉnh lại quan
điểm : “Không ai có thể hoàn toàn hết nợ đối với xã hội, bởi vì bao lâu ta
còn sống thì ta vẫn cứ tiếp tục trở thành con nợ, và cần phải gây lại trong
mình ý thức rằng mình có nghĩa vụ với đồng loại, và mình cũng có những con nợ nơi
họ nữa” (L. Bourgeois, “L’idée de solidarité”, 77; E. Monti, Alle fonti della
solidarietà, 67). Mặt khác, ông ghi nhận rằng “mục tiêu của thuyết liên đới
mang tính cách cá nhân, đó là sự tự do mà ta tái thủ đắc sau khi đã thanh toán
món nợ xã hội. Do đó học thuyết về sự liên đời là sự chuộc lại tự do và tư sản,
và nó cũng biện minh quyền tư hữu. Quyền tư hữu và tự do cá nhân sẽ chỉ là
chính đáng đối với những ai đã thanh toán các nghĩa vụ xã hội của mình” (L.
Bourgeois, “L’idée de solidarité”, 45).
[33] Xc.. E. Monti, “Solidarietà”, 79.
[34] Chúng tôi cũng quy chiếu các bài nghiên cứu của Bilgrien và Beyer đã nói
trên đây.
[35]
Xc. E. Monti, Alle fonti della solidarietà,
145-424.
[36] Xc. ĐTC Leô XIII,
Thông điệp Rerum novarum, số 20 (Acta Lêônis XIII,
11 [1892] 97-144).
[37] Xc. chẳng hạn như
ĐTC Piô XI Quadragesimo anno, số 84 (AAS 23 [1931] 145-150).
[38]
Monti lưu ý rằng khi thâu nhận thuyết liên đới của Pháp, Pesch đã thanh lọc
khái niệm này. Ý tưởng căn bản của thuyết liên đới là một mối ràng buộc khách
quan, nguyên thủy giữa các phần tử của xã hội nhân loại, được đặt làm nền tảng
các tương quan xã hội kèm theo những hệ luận luân lý. Khái niệm này có khả năng
khai sinh một kế hoạch luân lý xã hội đâm rễ trên nền tảng phổ quát được mọi
người quý trọng, và đồng thời có thể vượt lên sự đối đầu giữa chủ nghĩa cá nhân
của phe tự do và chủ nghĩa xã hội tập thể” (E. Monti, Alle fonti della solidarietä, 145-146).
[39]
H. Pesch. Lehrbuch der Nationalökonomie, I. Grundlegung (Herder, Freiburg 1905) 432.
[40] O. Von Nell-Breuning, “Christliche Soziallehre”, in: K. Rahner (dir), Sacramentum mundi.
Theologisches Lexikon für die Praxis, I (Herder, Freiburg 1967)
765-777; 770: “Der einzelne ist seiner Natur nach hingeordnet auf die
Gesellschaft und diese rückbezogen auf ihn”.
[41] Xc. J. Schwarte, Gustav Gundlach (1892-1963).
Maßgeblicher repräsentant der katholischen Soziallehre während der Pontifikate
Pius’XI. und Pius’XII (Schöningh, München 1975).
[42] O. Von Nell-Breuning, “Solidarismus”, in: K. Rahner (dir), Sacramentum mundi. Theologisches Lexikon für die Praxis,
IV (Herder, Freiburg 1969) 585: “Tragende Gedanken der Enzyklika “Quadragesimo
anno” (1931) und insbesondere das in ihr gezeichnete Bild der Gesellschaft sind
solidaristich”.
[43] Xc. J. Schwarte, Gustav
Gundlach (1892-1963), 143.
[44] E. Monti, Alle fonti della
solidarietä, 179.
[45] O. Von Nell-Breuning, “Solidarismus”, 585-586.
[46] Cfr. G. Gundlach, “Die christliche
Sozialreform in ihrem Gegensatz zu liber- alistischen und sozialistischen Lösungsversuchen
der sozialen Frage”, in: Die katholisch-soziale Tagung in Wien (Volksbund, Wien 1929)
32-47; 44.
[47] G. Gundlach, “Die christliche
Sozialreform”, 39-40.
[48] Ibid., 45.
[49] Ibid.
[50] G. Gundlach, Die Ordnung der
menschlichen Gesellschaft, II (Bachen, Köln 1964)
45-46.
[51] G. Gundlach, “Die christliche Sozialreform”, 45.
[52] Trích dẫn bởi E. Monti, Alle fonti della
solidarietà, 193.
[53] G. Gundlach, “Die christliche
Sozialreform”, 45.
[54] ĐGH Piô XII, Thông điệp Summi
pontificatus, các số 28; 7, 8, 10 và 37 (AAS 31 [1939] 413-594). Thuật
ngữ xuất hiện trong bản văn chính thức bằng tiếng Ý, Pháp, Tây Ban Nha, Anh và
Đức đăng trên AAS.
[55]
Xc. ĐGH Piô XII, Sứ
điệp truyền thanh Benignitas et humanitas,
24/12/1944 (AAS 37 [1945] 10-23; 12).
[56]
Xc. Liệt kê và chú giải tất cả các bản văn của Đức Piô XII: E. Monti, Alle fonti della solidarietà,
293-400.
[57]
E. Monti, Alle fonti della
solidarietà, 408.
[58]
ĐGH Gioan XXIII, Thông điệp
Mater et Magistra,
15/5/1961 (AAS 53 [1961] 401-464).
[59]
Về sự liên đới trong các văn kiện công đồng Vaticanô II, xin coi các nghiên cứu
của Bilgrien, Beyer và Monti đã nêu. Vì khuôn khổ giới hạn của
bài báo, chúng tôi không đề cập ở đây.
[60] Xc. D. Christiansen, “On relative equality: Catholic egalitarianism after Vatican II”, Theological Studies 45
(1984) 651-675; 652-655.
[61]
Xc. chẳng hạn như:
I. Camacho, Doctrina Social de la Iglesia. Una
aproximación histórica (Ediciones Paulinas, Madrid 1991) 376-378; D.
Figueroa Deck, “Commentary on Populorum Progressio
(on the Development of Peoples)”, en K. R. Himes (ed.), Modern
Catholic Social Teaching. Commentaries & Interpretations
(Georgetown University
Press, Washington D.C. 2005) 191-314; 196-197.
[63]
Xc. L.-J. Lebret, “Manifeste pour une civilisation solidaire”, in: Économie et Humanisme, 1959, 93 pp.
[64] Xc. L.-J. Lebret, “Manifeste pour une
civilisation solidaire”, 9-11.
[65]
Theo Parent, khi cha Lebret
bàn đến liên đới, ngài nghĩ đến động lực của nó hơn là nội dung của khái niệm.
Không thấy chỗ nào tác giả đưa ra một định nghĩa chính xác về liên đới (R. Parent, “Solidarité, communion, parti-pris. Pour une
théologie de la pratique de solidarité”, Studia
Moralia 31 (1993) 103-131; 105).
[66] Ibid. 13-14: “il s’agit
de préconiser et de chercher à mettre en place un régime économique
intégralement social et intégralement personnaliste en même temps que très
différencié dont l’objectif soit la ‘montée humaine universelle’, c’est-à-
dire, selon l’expression chère à François Perroux, de ‘tout l’homme’ et de
‘tous les hommes’”.
[67] Thêm vào đó, tư tưởng của
các số 20-21 của PP 20-21, về sự phát triển như là bước tiến từ những điều kiện
phi nhân đến các điều kiện nhân đạo hơn, có thể đọc ở các trang 16 và 47
của Tuyên ngôn.
[68]
L.-J. Lebret, “Manifeste
pour un civilization solidaire”, 18.
[69] Ibid., 50.
[70] Ibid.
[71]
Ibid., 51.
[72] Ít là trong những tác phẩm của Lebret và Perroux liên quan đến đề tài liên đới (F. Perroux, Capitalisme et communauté de travail (Libraire du Recueil Sirey, Paris 1938); F. Perroux, Economie et société. Contrainte - Echange - Don (Presses Universitaires de France, Paris I960), cũng như những
tác phẩm của Lebret đã trưng dẫn, chúng tôi không gặp thấy trích dẫn nào về Bourgeois
hoặc những tác giả chịu ảnh hưởng của ông.
[73]
K. Doran, Solidarity: A Synthesis of Personalism and
Communalism in the Thought of Karol Wojtyla I John Paul II (P. Lang,
New York 1996), 90.
[74]
Xc. J. Ratzinger, Eucharist, Communion and
Solidarity: “the understanding
of the concept of solidarity — thanks above all to the ethical studies of the
Holy Father — has been slowly transformed and Christianized”. Xem thêm:
K. Doran, Solidarity: A Synthesis of Personalism.
[75]
K. Wojtyla, Persona y acción (Biblioteca de Autores
Cristianos, Madrid 1982) 330.
[76]
Ibid.,
332-333.
[77]
Ibid., 333.
[78]
Xc. Ibid.,
329-330.
[79]
Ibid., 333.
[80]
Ibid.
[81]
Điểm son của Sách GLCG ở chỗ nó mang tính tổng hợp, trình bày những nòng cốt của
đức tin, dựa theo những đóng góp của công đồng Vaticanô II. Xc. J. Ratzinger, Current doctrinal relevance of the Catechism of the
Catholic Church (Vatican City. October 9, 2002) có thể tham khảo
trên địa chỉ http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/
rc_con_cfaith_doc_20021009_ratzingercatechetical-congress_en.html. (Truy cập
ngày 15/7/2019); J. R. Villar, “En el 25 aniversario del Catecismo de la
Iglesia Católica”, Scripta Theologica
49/3 (2017) 727-744.
[82] Xc. GLCG 1939.
[83] Xc. GLCG 1940-1941.
[84] Xc. GLCG 1942.
[85]
Xc. R. Parent, “Solidarité, communion, parti-pris. Pour une théologie de la
pratique de solidarité”, Studia Moralia 31 (1993) 103-131; 113-116; V.
Carraud, “Solidarité, ou les traductions de l’idéologie”, Communio (F) 14/5
(1989) 106-127; 126-127.
[86]
“This book concludes that solidarity can most fruitfully be defined as the preparedness
to share resources with others by personal contribution to those in struggle
or in need and through taxation and redistribution organized by the state” (S.
Stjernø,
Solidarity in Europe. The History of an Idea (Cambridge University Press, New
York 2005) 2).
[87]
Xc. Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Libertatis conscientia,
22/3/1986 (AAS 79 [1987] 554-599).
[88]
Chẳng hạn như E. Monti, Alle fonti della solidarietà, xem ra không để ý đến bản
văn này; R. Coste, “Solidarité”, en Dictionnaire de Spiritualitè, XIV
(Beauchesne, Paris 1990), 999-1006, trích dẫn số 90 của LC nhưng bỏ qua số 73.
Xc. M. V. Bilgrien, Solidarity. A Principle, an Attitude, a Duty?, 4-5.
[89]
ĐGH Bênêđictô XVI, Sứ điệp nhân ngày Thế giới hòa bình lần thứ XLII, xóa tan
nghèo đói, kiến thiết hòa bình (1/1/2009), số 11.