Thời sự Thần học - Số 92, tháng 05/2021, tr. 185-211
_Daniel de Pablo Maroto, O.C.D.[1]_
I. Cổ thời (tk I-VII)
A. Những định chế và thực hành bác ái
B. Những nền tảng thần học.
1/ Hội thánh nguyên thủy: a) Giáo hội là nhiệm thể Đức Kitô; b) Mục tiêu của tài sản; c) Đức Kitô nơi người nghèo.
2/ Từ thế kỷ IV. a) Những lý do tự nhiên: con người sống trong xã hội; mục tiêu sử dụng tái sản. b) Những lý do lịch sử cứu độ: Kitô học; phẩm giá con người; hiệu quả đền tội của việc bác ái.
II. Thời Trung đại (tk.VII-XV)
A. Những dữ kiện lịch sử
B. Những nền tảng thần học: 1/ Kitô học. 2/ Giáo hội học. 3/ Công bình và bác ái
III. Thời cận đại (tk. XVI-XVII)
A. Những định chế mới
B. Sự tiến triển trong quan niệm về người nghèo và bác ái
C. Ý thức hệ mới
IV. Thời đương đại (tk. XVIII-XX)
A. Thế kỷ XVIII
B. Thế kỷ XIX
C. Thế kỷ XX.
Không ai có thể viết nổi lịch sử về đức ái toàn diện trong đời sống Giáo hội, bởi vì nó thuộc về “đời sống nội tâm” của sự “hiệp thông các thánh”. Những bài viết về lịch sử của bác ái[2] chẳng qua chỉ là những biểu hiện bên ngoài của đức ái. Khi ôn lại lịch sử và thần học của bác ái, ta thấy rằng chuyện này không phải là sáng kiến của vài tư nhân hảo tâm hay của vài vị lãnh đạo sáng suốt, nhưng việc thực hành bác ái nằm ngay trong cấu trúc của Giáo hội. Trong sắc lệnh về Tông đồ giáo dân, số 8, Công đồng Vaticanô II đã viết như sau:
Dù ở thời đại nào, Giáo hội
cũng muốn được nhận diện nhờ dấu chỉ tình yêu, và trong khi vẫn vui mừng vì những
đề xuất của người khác, Giáo hội muốn tự đảm nhận những hoạt động bác ái như là
nhiệm vụ và quyền lợi bất khả di nhượng của mình.
Bài tóm lược sau đây muốn chứng minh nhận xét vừa nói của
công đồng. Chúng tôi sẽ phân chia lịch sử Giáo hội theo bốn giai đoạn để dễ
theo dõi: Cổ thời, Trung đại, Cận đại, Đương đại.
I. Cổ thời (thế kỷ I-VII)
Chúng tôi sẽ phân biệt hai khía cạnh: thực hành và đạo lý.
A. Những định chế và thực hành bác ái
Một yêu sách thường xuyên được gợi lên cho các tín hữu là những
đoạn văn của sách Tông đồ Công vụ 2,44; 4,32-37, bàn đến việc chia sẻ tài sản
giữa các phần tử của cộng đoàn tiếp theo việc chia sẻ đức tin và cử hành Thánh
Thể. Động lực của cử chỉ này không phải là ước mong sống nghèo cho bằng sống
tình huynh đệ.
Thử hỏi: đó là sự thật lịch sử hay chỉ là giấc mơ lý tưởng?
Dù nói gì đi nữa, chứng tích của sách Tông đồ công vụ về việc chia sẻ tài sản vẫn
là một lý tưởng cho các Kitô hữu trong hai thế kỷ đầu tiên[3].
Chúng ta gặp thấy nhiều chứng cớ lịch sử, bên Đông cũng như bên Tây, về điều
này, và tôi chỉ muốn thuật vài một vài bản văn tiêu biểu. Chẳng hạn như cuốn Apologia (Hộ giáo) của Aristides (đầu thế
kỷ II), nói đến việc giúp đỡ các quả phụ, các cô nhi, các lữ khách, những người
bị cầm tù vì đức tin[4].
Đặc biệt là chứng tích của thánh Giustinô (+165) nhắc đến việc các tín hữu đặt
tài sản làm của chung, và việc cộng đoàn quyên góp nhân buổi cử hành Thánh Thể,
nhờ đó vị chủ tọa có thể giúp đỡ những người túng cực: mồ côi, quả phụ, bệnh
nhân, lữ khách, tù nhân. Việc đóng góp mang tính cách tự nguyện, tùy theo khả
năng của mỗi người[5].
Ông Tertullianô cũng nói như vậy, và thêm rằng các Kitô hữu yêu thương nhau (một
điều khiến cho người ngoại thán phục) bởi vì họ là con cái của một Cha là Thiên
Chúa và họp thành một thân thể là Hội thánh:
Mỗi người đóng góp, nếu muốn
và có thể, một số tiền hàng tháng hoặc khi nào muốn. Không ai bị bắt buộc hết,
nhưng ai thích thì tự nguyện làm. Đây là một quỹ đạo đức, không dùng vào việc
chè chén, nhưng để nuôi dưỡng và chôn cất các người nghèo, mồ côi không có gia
tài, các người đầy tớ già nua, cũng như để giúp đỡ những người đắm tàu, những
tín hữu bị giam hoặc bị khổ sai lưu đày vì tuyên xưng danh Chúa[6].
Cũng vào thời Hội thánh nguyên thủy có hai khuôn mặt nổi bật
là Ignaxiô giám mục Antiôkía (+ 117) và Điônisiô giám mục Corintô (+ k.190), được
sử gia Eusebio Cesárea nhắc đến trong Historia
Eclesiástica khi thuật lại công cuộc bác ái ở Rôma. Vào thời thánh
Inhaxiô có “hơn 500 quả phụ và người túng thiếu được nuôi dưỡng do ân sủng và
tình thương của Chúa đối với con người”. Eusebiô cũng ghi lại lá thư của
Đionisiô viết vào cuối thế kỷ II để ca ngợi lòng bác ái của giáo đoàn Rôma dành
cho người nghèo túng[7].
Sau khi đã được hưởng tự do hành đạo vào đầu thế kỷ IV, Giáo
hội có thể tổ chức quy mô hơn các định chế bác ái, qua việc thiết lập những cơ
sở để đón tiếp những người túng thiếu, với sự hỗ trợ của chính quyền vừa mới
theo đạo. Bộ dân luật Codex Theodosianus
(năm 438) ủy thác cho các giám mục trách vụ giúp đỡ những người nghèo, tuy nhìn
nhận rằng điều này là một nghĩa vụ của hoàng đế: điều này cho thấy rằng Giáo hội
đã được chuyển giao những công tác, không phải là làm thay cho chính quyền, nhưng
là những công tác cố hữu của mình nhưng được hỗ trợ thêm với tài nguyên của Nhà
nước[8].
Với việc tài trợ này, cộng thêm vào sự đóng góp của các tín hữu, giám mục trở
thành “cha của những người nghèo”, một danh hiệu bắt nguồn từ thời Giáo hội sơ
khai và còn tiếp tục qua nhiều thế kỷ.
Lịch sử còn nhắc đến một vài định chế từ thiện to lớn dưới sự
quản trị của Giáo hội, được tổ chức bởi các giám mục và các người quyền thế.
Bên Đông phương, thánh Basiliô đã cất một “thị trấn bác ái” ở Cêsarêa
(Capađôxia) vào khoảng năm 379, được đặt tên là Basiliada, “vừa là bệnh viện, nhà trọ, xưởng thợ, trường học,
trại phong”[9].
Thánh Gioan Kim khẩu, một trong những nhà giảng thuyết hăng say nhất chống lại
những người giàu có sống xa hoa mà lại hà tiện khi giúp đỡ người nghèo, cũng đã
thiết lập những cơ sở từ thiện tương tự ở Antiôkía (386-398) và
Constantinopolis (398-402)[10].
Xem ra tại thủ đô Constantinopolis đã có hơn 30 bệnh viện[11].
Bên Tây phương, ngay từ trước thế kỷ IV, Giáo hội Rôma đã có
nhiều tài sản không những ở Italia và Tây phương, mà còn ở Syria, Ai-cập và Tiểu
Á. Vì thế ta có thể hiểu được cuộc bách hại của hoàng đế Valerianô năm 257 được
thúc đẩy không chỉ vì lý do tôn giáo mà còn vì lý do kinh tế. Ông Macriano, bộ
trưởng tài chính, là “nhà chính trị đầu tiên đã biết sử dụng chiêu bài chống
Kitô giáo để làm đầy kho bạc nhà nước”[12].
Những tài sản này là của Giáo hội và của các tín hữu giàu có dùng để giúp đỡ
người túng thiếu. Nhiều cơ sở bác ái đã được biết đến, chẳng hạn như bà Fabiola
ở Rôma, là người đầu tiên đã lập ra một bệnh viện (nosocomium), và bà đích thân phục vụ các bệnh nhân. Đôi vợ
chồng Pammaquio và Paulina thuộc hàng quý tộc cũng làm như vậy[13].
Không thể nào kể hết các cơ sở từ thiện bên Đông phương và Tây phương, được thiết
lập tại Rôma và các giáo phận khác, dưới sự huy động của các giám mục, khiến
cho các ngài được tặng danh hiệu là “cha của người nghèo”, “tôi tới các tôi tớ”
(kể từ thánh Grêgoriô Cả, + 604), “kẻ bảo vệ nền văn minh” (như thánh Lêo Cả
vào thời Rôma bị quân man di tấn công)[14].
B. Những nền tảng thần học
Những thể chế bác ái được nâng đỡ bởi những ý tưởng thần học
đã được gợi lên từ thời Hội thánh sơ khai và kéo dài suốt giai đoạn các giáo phụ.
1. Thời Hội thánh nguyên thủy
Trong ba thế kỷ đầu tiên, mặc dù chưa có những khảo luận thần
học hệ thống, nhưng qua các thư từ, bài giảng, chứng tích, chúng ta nhận ra vài
tư tưởng hướng dẫn các hành động của Giáo hội.
a) Trước hết là một quan niệm về Giáo hội như là thân thể mầu
nhiệm của Đức Kitô. Bản tính của Hội thánh được biểu lộ không những khi cử hành
mầu nhiệm cứu chuộc của Chúa trong bí tích Thánh Thể, mà còn qua việc chia sẻ
các của cải vật chất cũng như của cải thiêng liêng[15].
Thực hành bác ái có nghĩa là xây dựng Hội thánh. Phương tiện cụ thể nhất là bố thí như là chia sẻ điều mình thủ đắc được
do công sức lao đông, hoặc do dành dụm từ việc chay tịnh. Nó mang giá trị đền tội
và lập công phúc: việc bố thí có sức giải thoát khỏi tội lỗi[16].
b) Tuy bênh vực quyền sở hữu chính đáng của mỗi người, nhưng
ngay từ những thế kỷ đầu tiên, các giáo phụ cũng nêu bật rằng ở trên đời này, mọi
sự đều là của chung, Việc sở hữu tài sản không mang tính tuyệt đối, nhưng sự
khước từ san sẻ với người nghèo có thể là một thứ tội sát nhân. Thánh Clêmentê
Alêxandria viết: “Mọi của cải trên địa cầu đều là của chung bởi vì Thiên Chúa
đã làm cho hết mọi người; vì thế, những người giàu đừng đòi hỏi phải có nhiều
hơn những người khác”[17].
Thực ra, có một sự tương tác giữa người giàu với người nghèo: cả hai cùng lấy của
cải mình để giúp nhau: người giàu bằng của vật chất, người nghèo bằng của tinh
thần; người giàu được rao giảng Tin Mừng nhờ người nghèo[18].
Như vậy, một nền tảng đạo lý thứ hai của tình bác ái là niềm tin vào Thiên Chúa
tạo thành muôn vật và quan phòng cho hết mọi người.
c) Một nền tảng thần học
thứ ba được nhìn trong tương quan với Đức Kitô, đó là nhận ra Đức Kitô nơi người
nghèo. Tư tưởng này được thánh Inhaxiô Antiokia và thánh Clêmentê Alexandria sử
dụng trong việc bảo vệ nhân tính của Đức Kitô trong cuộc chiến đấu với thuyết ảo
nhân (docetismus). Thật vậy, Đức
Kitô là con người thật, có thân xác, chứ không phải là siêu nhân. Từ niềm tin
vào Đức Giêsu là người thật, nảy ra tình liên đới với người nghèo: người thân cận
túng thiếu là chính Đức Giêsu[19].
2. Các giáo phụ từ thế kỷ IV
Tiếp nối truyền thống Tân ước và Hội thánh nguyên thủy, các
giáo phụ thế kỷ IV (sau khi Kitô giáo đã được tự do hành đạo) đã phát triển những
nguyên tắc thần học có ảnh hưởng sang các giai đoạn kế tiếp cho đến ngày nay.
Thật khó tóm lược toàn bộ giáo huấn của các giáo phụ, chúng tôi chỉ muốn ghi nhận
một vài điểm quan trọng, tạm phân làm hai cấp độ: một cấp độ lý luận theo
nguyên tắc tự nhiên của lý trí, và một cấp độ lý luận theo thần học cứu độ.
a) Trên bình diện tự nhiên, các giáo phụ lý luận rằng con người
sống trong xã hội, vì thế cần phải quan tâm đến nhau, tương trợ lẫn nhau[20].
Nhưng chính lúc suy tư về tình bác ái mà các giáo phụ đi sâu vào vấn đề tài sản
và việc sử dụng của cải. Ý kiến của các ngài khá đồng nhất về điểm này: quyền sở
hữu là điều hợp pháp, miễn là ngưởi sở hữu phải coi mình như là quản lý chứ
không phải như là chủ nhân tuyệt đối; họ không được giữ riêng cho mình những gì
mà Thiên Chúa đã muốn cho hết mọi người được sử dụng. Đối với của cải, con người
chỉ có quyền hưởng hoa lợi, bởi vì chủ nhân tuyệt đối của chúng là Đấng Tạo
hóa. Sau khi đã trang trải những nhu cầu bản thân, thì những của dư thừa phải
được chia sẻ cho những người nghèo khổ túng cực, theo như đòi hỏi của đức bác
ái và công bình. Hiểu như vậy, của bố thí không phải là cho đi tài sản của
riêng mình, mà là “hoàn lại” cho người nghèo cái thuộc về họ[21].
Vì thế, quyền tư hữu mang tính xã hội và chịu nhiều giới hạn. Mặt khác, những của
cải mà ta sở hữu tạo điều kiện cho việc thi hành bác ái, tạo ra tinh thần liên
đới với tha nhân[22].
Thậm chí các giáo phụ còn dùng ngôn ngữ rất mạnh khi tố cáo những người có tài
sản mà không giúp người nghèo: họ phạm tội ăn cắp và giết người[23].
Đây không phải là ngôn từ hùng biện, nhưng còn mang theo việc đánh giá luân lý.
b) Trên bình diện lịch sử cứu độ. Các giáo phụ trưng dẫn nhiều
nền tảng đạo lý dựa trên mặc khải Kitô giáo.
- Kitô học. Các giáo phụ thường nêu bật nền tảng tối hậu của
đức bác ai ở chỗ Đức Kitô đã tự đồng hóa mình người nghèo. Vì thế phục vụ người
nghèo là phục vụ Đức Kitô, Đấng đã nhập thể trong họ[24].
- Ơn gọi siêu nhiên của con người. Con người không chỉ được tạo
dựng bởi Thiên Chúa, được đồng hóa với Đức Kitô, nhưng còn được “thiên hóa” (divinisatio) nữa. Đây mới thực sự là phẩm
giá cao quý của con người. Điều này được nêu bật cách đặc biệt nơi các giáo phụ
Đông phương. Trong một bài giảng nói về người phong hủi, thánh Grêgôriô
Nazianzô nói rằng tuy thân thể của họ đã bị nát tan vì bệnh, nhưng con người của
họ vẫn phản ánh thiên tính của Chúa Cha (tạo dựng), Chúa Con (cứu chuộc) và
Chúa Thánh Linh (thánh hóa); họ sẽ đạt tới đời sống vĩnh cữu giống như bao vị
thánh khác[25].
- Sau những luận cứ tín lý sâu sắc gặp thấy nơi các giáo phụ
Đông phương, các giáo phụ bên Tây thêm vào những luận cứ mang tính luân lý tu đức:
việc bố thí cho người nghèo là cách thức biểu lộ đức bác ái, và mang lại hiệu
quả tha tội, cũng tương tự như việc ăn chay cầu nguyện. Điều này đã được thánh
Cyprianô gợi lên từ những thế kỷ đầu tiên, và được các giáo hoàng Lêo Cả và
Grêgôriô Cả nhắc lại[26].
Dựa trên các nguyên tắc của nhân-luận thần-học và nhiều lý do
khác nữa (chẳng hạn sự bình đẳng giữa mọi nhân sinh, sự tự do của con cái
Chúa), vài giáo phụ đã bắt đầu chỉ trích chế độ nô lệ. Tiếc rằng đó là một vài
tiếng nói yếu ớt và không gây tác dụng thực tiễn[27].
II. Thời Trung đại (thế kỷ VIII-XV)
Trước hết, chúng tôi sẽ trình bày những dữ kiện lịch sử, kế
đó là các nền tảng đạo lý.
A. Những dữ kiện lịch sử
Trong việc thực hành bác ái, thời Trung đại tiếp tục thời các
giáo phụ qua các định chế của Giáo hội, được xây cất nhờ tài sản của mình hoặc
nhờ tài sản của giới tư sản (thủ công nghệ, thương mại, ngân hàng). Mặt khác,
không thiếu những nét mới mẻ do tác dụng của các thay đổi kinh tế, xã hội, tôn
giáo, đặc biệt là trong giai đoạn hai của thời Trung đại.
Một biến cố tác dụng không ít đến lịch sử của bác ái là các
cuộc chiến thập-tự-quân Một đàng, nó giúp cho việc tái khám phá Đức Giêsu lịch
sử. Đàng khác là sự thành lập các tổ chức và dòng tu nhằm giúp đỡ những khách lữ
hành, những người bệnh, những người nghèo. Một vài dòng tu vừa mang tinh thần
hiệp sĩ (nhằm chiến đấu chống lại các lực lượng tấn công Kitô hữu) vừa mang
tinh thần phục vụ, tựa như: Dòng bệnh viện thánh Gioan ở Giêrusalem, Dòng
Teutonia, Dòng bệnh viện Chúa Thánh Thần, Dòng bệnh viện thánh Antôn, Dòng các
hiệp sĩ bệnh viện thánh Lazaro ở Giêrusalem, Dòng Chúa Ba ngôi, Dòng Đức Bà chuộc
kẻ làm tôi[28].
Trong khi đó, các tòa giám mục, các đan viện vẫn tiếp tục các công tác từ thiện
đã có từ xưa.
Mặt khác, tâm thức bình dân tôn trọng như thánh nhân những
người thi hành việc bác ái qua việc từ bỏ của cải, cách riêng nếu trước đó họ
thuộc hàng quý tộc. Mặc dù không thiếu những người chỉ trích Giáo hội là giàu
có, nhưng người ta cũng sẵn sàng chấp nhận những tài sản mà các vị chức sắc
dùng vào việc phục vụ người nghèo[29].
B. Những nền tảng thần học
Chúng ta có thể nói đến: nền tảng Kitô học, nền tảng Giáo hội
học của việc thực hành bác ái; thêm vào đó là những quan niệm thần học về ý
nghĩa của tài sản.
1. Những nền tảng Kitô học
Vào lúc giao thời giữa giai đoạn Thượng và Hạ Trung đại (thế
kỷ XI), người ta tái khám phá Đức Giêsu làm người, nghĩa là Nhân tính của Ngài.
Hai hiện tượng đã góp phần vào sự kiện ấy: a Những cuộc thập tự chinh cho phép
tiếp tục các cuộc hành hương sang Thánh địa; b) thần học về Ngôi Lời nhập thể kể
từ thánh Anselmô Canterbury (Cur Deus Homo?)
và linh đạo tiếp theo của các thánh Bênarđô, Phanxicô, Bônaventura, vv. Một hệ
luận trực tiếp là đời sống nghèo được nhìn như là “đi theo và bắt chước Đức
Giêsu” và hoạt động tông đồ được coi như phục vụ dân chúng. Điều này đã gây ra
việc thành lập các dòng tu phục vụ những người nghèo khổ, tức là những người được
nhìn nhận như là con cái Thiên Chúa và khuôn mặt của Đức Kitô. Các dòng khất sĩ
cũng đặt lý tưởng là khó nghèo trần trụi đi theo Đức Kitô trần trụi (nudus nudum Christum sequi) [30].
Vì thế người nghèo được xem như “đại diện của Đức Kitô” («pauper Christi vicarius est», châm
ngôn của
Pierre de Blois, + 1200); hoặc người ta nói đến “những người nghèo của Đức
Kitô” (Rabán Mauro, Antôn Padova, Raymunđô Lull)[31].
Thậm chí đời sống huyền bí cũng được mô tả như là kết hiệp với Đức Kitô phục vụ
những người nghèo, theo như chứng tích của nhà thần bí Marie d’Ognies, sinh
năm1178 [32].
Đó cũng là cảm nghiệm của thánh Phanxicô Assisi, khi nhận ra Đức Kitô nơi người
phong hủi. Thiên Chúa và Đức Kitô đội lốt người nghèo[33].
2. Những nền tảng Giáo hội học
của sự khó nghèo và bác ái
Việc thực hành đức khó nghèo như là đi theo Đức Kitô cũng như
giá trị của đức khó nghèo trong đời sống tâm linh đã dẫn đến việc nảy sinh một
vài nhóm cực đoan bị Giáo hội kết án là lạc giáo (Khuynh hướng của nhóm Spirituales
trong dòng Phan sinh, hoặc fraticelli:
Michael de Cesena, Angelo Clareno, Pietro Olivi, Jacopone da Todi, vv.). Cuộc
tranh luận này mang lại nhiều hệ luận lịch sử:
a) Ý nghĩa của đời sống khó nghèo và thực hành bác ái trong
Giáo hội.
b) Nguy cơ của việc tuyệt đối hóa vài phương thế diễn tả đức
khó nghèo.
c) Việc chỉ trích một Giáo hội quyền lực chính trị, xã hội và
kinh tế về phía những người tìm kiếm đức khó nghèo nhằm hoàn thiện bản thân hơn
là do tinh thần liên đới.
Dù sao, nên biết là bên cạnh những phong trào chống đối Giáo
hội, cũng có những ý kiến phê bình rất tích cực (chẳng hạn như Guigo II, đan sĩ
dòng Chartreux; giám mục Jean de Cardaillac, viện phụ Bênarđô, Catarina Siena),
khi nhắc nhở rằng Patrimonium Petri
là patrimonium pauperum: tiền bạc
của Giáo hội là để làm việc bác ái, giúp đỡ người nghèo, chứ không phải là để
xây cất nhà thờ lộng lẫy, dinh thự xa hoa[34].
3/ Việc sở hữu tài sản;
bác ái-bố thí và công bình
Các tác giả thời Trung đại lặp lại tư tưởng của các giáo phụ.
Đại khái, họ tiếp tục khai triển các ý tưởng đã được nói trong mục trước, đó
là:
a) Con người không phải là sở hữu chủ tuyệt đối của các tài sản
trên địa cầu, mà chỉ là người quản lý (Pherô Đamiani, Abelardo).
b) Của cải dư thừa không thuộc về người giàu, nhưng thuộc về
người nghèo. Việc bố thí hay bác ái là một hành động công bình: trả lại cho người
nghèo điều thuộc về họ (Phêrô Đamiani).
c) Không quan tâm đến người nghèo khó túng cực là phạm tội giết
người, ra như là giết Đức Kitô vậy (Abelardo).
d) Từ đó, suy ra rằng ở bên trên quyền sở hữu thủ đắc, còn có
quyền tự nhiên sinh tồn; vì thế, ăn cắp trong trường hợp túng quẫn thì không có
tội (T. Tôma Aquinô)[35].
III. Thời cận đại (thế kỷ XVI-XVII)
Vào thời này, đã có những sự thay đổi não trạng sẽ lớn dần ở
các giai đoạn kế tiếp. Một cách tổng quát, có thể nói rằng có sự chuyển biến từ
chỗ bác ái và từ thiện sang đến công bình và bảo hiểm xã hội. Cũng nên biết là
các tư tưởng này không tiến triển đồng bộ trên khắp mọi quốc gia trên hoàn cầu,
mà ngay cả tại các nước Kitô giáo lâu đời nhịp độ thay đổi cũng khác nhau. Cũng
như những đoạn trước, chúng tôi xin trình bày trước tiên là các định chế, rồi
sau đó là các tư tưởng thần học.
A. Những định chế bác ái mới
Một dấu hiệu cho thấy sức sống của Giáo hội và sự phục vụ bác
ái thuộc về cơ cấu của Giáo hội là sự nảy sinh của những thể chế mới của công
cuộc từ thiện, đặc biệt là tại những quốc gia công giáo, nơi mà các cơ sở không
bị Nhà nước Tin lành truất hữu. Thật vậy, trong thế kỷ này, ta thấy có nhiều
dòng tu được thiết lập để phục vụ những người bệnh tật, mồ côi, khó nghèo, mù
chữ, vv. Thí dụ: dòng Oratorio của
thánh Philippe Neri (Rôma, 1551); dòng Teatino
của thánh Gaetano da Thiene (+ 1547) ở Rôma; dòng Barnabiti của thánh Antôn M. Zacaría (Milano 1531); dòng Somaski của thánh Giêrônimô Emiliani
(Somasca-Bérgamo, 1530); Dòng Tên của thánh Ignaxiô Loyola (París-Rôma, 1540);
dòng Phục vụ bệnh nhân của thánh
Camilô Lellis (Rôma 1586); dòng Bệnh viện của thánh Gioan Thiên Chúa (Granada,
1571); dòng Thừa sai của thánh Vinh Sơn Phaolô và các Nữ tử Bác ái của thánh nữ
María Marillac; và nhiều dòng khác nữa[36].
Mặt khác, các thể chế thời Trung cổ, chẳng hạn như các hiệp hội bác ái từ thiện,
vẫn tiếp tục hoạt động; ngoài ra cũng cần nói đến những thể chế giúp đỡ người
nghèo, như là quỹ tiết kiệm, tiệm cầm đồ, v.v..
B. Sự tiến triển trong quan niệm về người nghèo và bác
ái
Một vài tác giả thuộc các thế kỷ XVI-XVII phát biểu một vài
luận đề cách mạng về người nghèo, việc từ thiện và bác ái dựa theo tinh thần mới
của thời Phục hưng đòi hỏi những giải pháp mới. Chẳng hạn như ông Luis Vives (De subventione
pauperum, 1526): để chống lại chính sách xóa nghèo của thành phố
Bruges (Bỉ), để bảo vệ những người thực sự nghèo, và vì thế đòi hỏi người ấy phải
xin một giấy chứng nhận của cha quản xứ. Thật ra đây là một sự chỉ trích những
người giàu là kẻ trộm cắp, bởi vì họ ăn trộm của người nghèo khi mà họ phung
phí tài sản hay là họ chiếm giữ nhà cửa của người nghèo[37].
Cha Domingo de Soto O.P. (Deliberación en la
causa de los pobres, 1545) chống lại những biện pháp xỏa bỏ cảnh
nghèo bởi vì chúng tước mất quyền của người nghèo được xin ăn và quyền của người
giàu được làm việc từ thiện; như vậy, tác giả bảo vệ việc ăn xin, dựa theo giáo
huấn của các giáo phụ. Cha Juan de Robles O.S.B. (De la orden que en algunos pueblos se ha puesto en la limosna para
remedio de los verdaderos pobres, 1545) chủ trương công bình xã hội
thay vì bác ái từ thiện: cha gợi ý là nên quy tụ những người nghèo vào các nhà
tình thương, nơi họ có thể làm việc. C. Pérez de Herrera (Amparo de pobres, 1598), Miguel Giginta
(nhiều tác phẩm), bênh vực các tư tưởng của Vives và của Juan de Robles, chống
lại ý kiến của Domingo Soto. Cha Juan de Mariana S.J. (De rege et regis institutione, 1599) chấp
nhận cho Nhà Nước can thiệp vào công việc từ thiện.
C. Ý thức hệ mới
Ta có thể kết luận rằng trong hai thế kỷ này, những tư tưởng
cổ điển của các giáo phụ và các tác giả tâm linh về việc giúp đỡ người nghèo nhờ
công tác bác ái cùng tồn tại với những tư tưởng mới; tuy vậy, quan niệm cũ vẫn
thắng thế. Giáo hội vẫn tiếp tục trợ giúp bằng vật chất và tinh thần cho những
người túng cực. Nhà Nước bắt đầu can thiệp bằng cách giảm bớt các bệnh xá và cất
những y viện lớn và chuyên khoa hơn[38].
Vì thế người ta lại gặp những tư tưởng tựa như: Đức Kitô
(cách riêng Đức Kitô chịu đóng đinh) nhập thể trong những người nghèo
(Bossuet), ở nơi họ Người chịu đau khổ (Henry Amauld) và chúng ta phục vụ Thiên
Chúa nơi họ; giá trị của công tác xã hội: chúng ta rời Chúa đang lúc cầu nguyện
để đi gặp Chúa nơi người nghèo (thánh Vinh Sơn Phaolô). Giáo hội là “thị trấn của
những người nghèo” (Bossuet). Trên thực tế, người ta gặp thấy những nhà giảng
thuyết hùng hồn nói về người nghèo, đề cao phẩm giá của họ, nhưng lại sống
phong lưu và quen thân với hạng thượng lưu. Từ đó, Giáo hội bỉ chỉ trích là nói
hay về người nghèo nhưng không sống nghèo. Thực ra, cũng không thiếu những
khuôn mặt anh hùng chia sẻ nếp sống với người nghèo: thánh Vinh Sơn Phaolô (phục
vụ những người nghèo và người bệnh), Phêrô Claver (che chở những người nô lệ),
Giuse Calasanz và Gioan de la Salle (mở trường giáo dục các trẻ em nghèo), và
vô số những vị khác. Các ngài đã lấy phương châm hoạt động là: những người
nghèo là “cửa tiệm của Thiên Chúa” (Vinh Sơn Phaolô), “huy hiệu của Giáo hội”
(Pedro Claver), “những người chủ và người thầy của chúng ta” (Vinh Sơn Phaolô,
lấy lại một ý tưởng của thánh Gioan Thiên Chúa); người nghèo có quyền được giáo
dục hơn là người giàu (Gioan La-san, Giuse Calasanz), được trợ giúp không chỉ về
vật chất mà cả về tinh thần nữa (Vinh Sơn Phaolô)[39].
IV. Thời đương đại (thế kỷ XVIII-XX)
Ở đây “đương đại” không những ám chỉ thời đại mà chúng ta
đang sống, mà còn ám chỉ tư tưởng hiện đang chi phối não trạng của chúng ta, chịu
ảnh hưởng của những quan điểm “Khai sáng” từ thời cách mạng Pháp. Chúng ta hãy
ôn lại những đường hướng nổi bật trong vòng ba thế kỷ gần đây.
A. Thế kỷ XVIII
Về tư tưởng phục vụ
người nghèo phục vụ xã hội, thế kỷ XVIII còn duy trì nhiều tư tưởng và thể chế
của hai thế kỷ trước. Nhiều “nhà thương xót” (Casas
de misericoria) được
thiết lập, dành cho các bệnh nhân cũng như người nghèo, vừa để chứa chấp và kiểm
soát những người nghèo (để phòng ngừa những tệ đoan xã hội), vừa giáo dục và tạo
công ăn việc làm cho họ (để gia tăng sản xuất). Đây là một tư tưởng của phong
trào Khai sáng sẽ được Cách mạng Pháp lấy lại[40].
Nói cho cùng, đây là một cuộc cách mạng của giới tư sản chống lại giới thượng
lưu và hoàng gia; tuy nhiên, tầng lớp hạ lưu (công nhân, những người bị gạt ra
bên lề) cũng đòi hỏi bình đẳng quyền lợi, và tuyên bố việc ăn xin là sự xâm phạm
phẩm giá của họ xét như là những công dân. Kể từ đó, việc hành khất trở thành vấn
đề xã hội, chính trị, chứ không còn là chuyện bác ái, từ thiện (tôn giáo) nữa.
Giáo hội đã chỉ trích giải pháp này vì xem đó như là một sự
xen lấn của Nhà Nước, và làm ngăn cản công tác bác ái vốn là một điều chuyên biệt
của Giáo Hội. Các tác giả của trường phái tự do thì chỉ trích Giáo hội vì đã
bao che những kẻ lang thang bất lương bằng bát cháo của các tu viện (Gerónimo
de Ustáriz). Nói cho cùng, xem ra họ muốn xét lại vai trò lãnh đạo xã hội của
Giáo hội, muốn kiểm soát dân chúng cả về khía cạnh tôn giáo lẫn về khía cạnh
chính trị[41].
B. Thế kỷ XIX
Thế kỷ này chứng kiến hai hiện tượng xem ra trái ngược nhau[42].
Một đàng Nhà Nước bắt đầu can thiệp vào việc thiết lập và điều khiển các bệnh
viện và trường học, trước đây nằm trong tay của Giáo hội: như vậy, xem ra lãnh
vực hoạt động của Giáo hội bị thu hẹp lại. Đằng khác, hoạt động bác ái của Giáo
hội lại tăng gia nhờ việc thiết lập các dòng tu chuyên lo việc bác ái: người ta
tính có đến 1.139 hội dòng nữ tu ra đời trong thế kỷ XIX[43].
Hai hiện tượng ấy có liên hệ gì với nhau hay không? Phải chăng vì công cuộc từ
thiện trở thành tục hóa (nằm trong tay Nhà Nước) cho nên Thánh Linh đã “thổi
lên” các dòng tu bác ái, để nhắc nhở tính cách tôn giáo của công cuộc từ thiện?
Đó là chưa nói đến các hiệp hội bác ái xã hội do các giáo dân điều khiển, chẳng
hạn như Hội Bác ái thánh Vinh Sơn do một nhóm sinh viên thành lập tại Paris năm
1833, do Fredeic Ozanam điều khiển.
Đứng trước hai hiện tượng tương phản như vậy, ta có thể hình
dung được nhiều lối phán đoán đối nghịch. Có người chỉ trích Giáo hội vì không
theo kịp thời đại, cứ bám vào tư tưởng cổ xưa, khuyến khích người giàu thi hành
việc bố thí của cải dư thừa để tỏ lòng bác ái, và khuyến khích người nghèo chấp
nhận cảng cùng khổ để đền tội. Nói cách khác, vấn đề người nghèo được nhìn
trong viễn tượng của đức mến, hướng đến hạnh phúc mai sau, thay vì chuyển sang
viễn tượng công bình xã hội[44].
Nhưng cũng có người cho thấy những cái nhìn “tiên tri” của Giáo hội, qua những
dự án giúp đỡ người nghèo, hoặc qua “học thuyết xã hội” của các giáo hoàng.
C. Thế kỷ XX
Kể từ cách mạng Pháp vào cuối thế kỷ XVIII, tại nhiều quốc
gia Âu châu, chính quyền đã quốc hữu hóa các cơ sở bác ái, y tế, giáo dục của
các Dòng tu, rồi sau một thời gian, lại trả về. Đằng khác, chính quyền đứng ra
tổ chức mạng lưới y tế và giáo dục riêng: từ đó sinh ra sự cạnh tranh giữa bệnh
viện công (của Nhà Nước) và bệnh viện tư (của các dòng tu), cũng như giữa các
trường công lập (của nhà nước) và trường tư lập (của các dòng tu). Nên ghi nhận
là phẩm chất của các cơ sở tư thường cao hơn là các cơ sở công; nhưng đối lại,
phí tổn tại các bệnh viện và trường học tư thì cũng cao hơn các cơ sở công lập,
với hệ quả trớ trêu là nhiều cơ sở của các dòng tu phục vụ người giàu thay vì
dành ưu tiên cho người nghèo! Trong cuộc “cạnh tranh” dài hạn, tất nhiên là các
cơ sở công lập phát triển mạnh hơn nhờ được tài trợ bởi nguồn lực quốc gia,
trong khi các cơ sở tư lập sụt giảm do những khó khăn về tài chính và nhân sự.
Phải chăng công cuộc bác ái của Giáo hội trở nên thừa thãi, không cần thiết nữa?
Đó là những câu hỏi được đặt ra trước những thách đố mới của thế kỷ. Chúng tôi
xin lược qua các sự kiện và dừng lại lâu hơn ở lãnh vực học thuyết.
1/ Trước hết, cần ghi nhận rằng các thể chế bác ái của Giáo hội
không ngừng gia tăng trong những thế kỷ gần đây, chỉ cần trưng dẫn dòng Thừa
sai Bác ái của Mẹ Têresa Calcutta như một trường hợp điển hình mà mọi người đều
biết; ngoài ra còn có những người dấn thân không chỉ để cứu trợ người nghèo mà
còn tìm cách cải thiện nếp sống của họ, tựa như bà Madeleine Delbrél, cha
Joseph Wresinski, Dom Helder Cámara, Đức cha Oscar Romero[45].
Trên phương diện cơ cấu của Giáo hội, có thể nhắc đến rất nhiều tổ chức bác ái,
chú trọng đến các nhu cầu vật chất và tinh thần của các người nghèo trên bình
diện cá nhân cũng như tập thể, mà điển hình là các tổ chức trực thuộc Caritas mà chúng tôi sẽ có dịp trở lại.
2/ Chúng tôi muốn chú ý hơn đến khía cạnh tư tưởng đạo lý, đặc
biệt là những tư tưởng không chỉ của vài cá nhân mà còn là đường hướng hoạt động
do các thẩm quyền Trung ương của Giáo hội đề xướng.
Một sự chuyển hướng quan trọng trong các văn kiện của Huấn
quyền Giáo hội là không chỉ khuyến khích việc thực hành bác ái mà còn nêu lên
những yêu sách của công bình xã hội. Thật ra, đây cũng là một cách đáp trả lại
thách đố của thời đại, khi nổi lên những phong trào tranh đấu cho quyền lợi của
người nghèo: theo các nhà chính trị thuộc chủ nghĩa xã hội, những người nghèo
không ngửa tay xin bố thí nhưng đòi hỏi quyền lợi của họ. Mặt khác, vấn đề
tranh chấp giữa người giàu và người nghèo không chỉ giới hạn trong khuôn khổ của
một quốc gia mà còn giữa các quốc gia trên thế giới (những nước giàu và những
nước nghèo).
Những văn kiện về Giáo huấn xã hội bắt đầu ra đời từ cuối thế
kỷ XIX (thường lấy mốc là thông điệp Rerum
novarum của ĐTC Lêô XIII năm 1891). Tuy nhiên, có thể nói được phải
chờ đến công đồng Vaticanô II mới phát triển việc suy tư thần học về người
nghèo, không chỉ như là đối tượng của đức bác ái mà còn như là mục tiêu dấn
thân của Giáo hội. Chúng ta có thể gợi lại vài chặng tiến triển.
Một tháng trước khi khai mạc công đồng, trong sứ điệp truyền
thanh ngày 11 tháng 9 năm 1962, Đức thánh cha Gioan XXIII tuyên bố rằng “trước
mắt các nước chậm tiến, Giáo hội muốn được nhận biết qua bộ mặt thật của mình
là Giáo hội của những người nghèo”.
Giáo hội muốn trở nên nghèo để biến thành một cộng đoàn của những người nghèo và có thể loan báo cho
các người nghèo sự giải thoát khỏi mọi cảnh áp bức. Giáo hội nghèo, của những
người nghèo và cho người nghèo. Thật là một cuộc cách mạng tư tưởng, bởi vì xưa
nay không thiếu người nghĩ rằng Giáo hội là của những người giàu và dành cho
người giàu.
Vào chính ngày khai mạc công đồng, các nghị phụ đã gửi một sứ
điệp cho toàn thể nhân loại, và nhấn mạnh rằng công đồng “tiên vàn hướng đến những
người bé nhỏ, những người nghèo khó, những người yếu ớt”, và theo gương Đức
Kitô, công đồng động lòng trắc ẩn “trước những đám đông bị đè nén bị đói khát,
khốn cùng và dốt nát” (số 9).
Trong bài diễn từ khai mạc khóa hai của công đồng, Đức thánh
cha Phaolô VI nói rằng “Giáo hội quan tâm đặc biệt đến một vài thành phần. Giáo
hội nhìn đến những người nghèo, những người túng quẫn, những người âu lo, những
người đói, những người bệnh, người người bị giam tù, tức là toàn thể nhân loại
đang đau khổ và than khóc: họ có quyền được loan báo Tin Mừng”[46].
Đặc biệt trong bài diễn văn bế mạc công đồng, Đức thánh cha
Phaolô VI đã phác họa một nền nhân học Kitô giáo, để đáp lại những trào lưu vô
thần nhân bản trong nền văn hóa hiện đại. Kitô giáo là một tôn giáo hướng về
Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là một tôn giáo của con người, tôn giáo của
tình bác ái. Câu chuyện của người Samaria nhân hậu vẫn là điểm mốc của linh đạo
của công đồng. Trước những thách đố của các chủ nghĩa nhân bản thời nay muốn phủ
nhận Đấng Siêu việt, công đồng đã giới thiệu một “chủ nghĩa nhân bản mới”. Công
đồng tuyên bố rằng hơn bất cứ ai hết, Giáo hội phục vụ con người (số 13). Công
đồng nghiêng mình xuống trên con người, để nâng nó lên tới vương quốc Thiên
Chúa[47].
Trong văn kiện cuối cùng, tức là Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng”,
Công đồng kết luận rằng “tinh thần khó nghèo và bác ái là vinh dự và chứng tá của
Giáo hội Công giáo; vì thế Dân Thiên Chúa, đứng đầu là các giám mục, có nghĩa vụ
phải cứu trợ những cảnh khốn cùng của thời đại… không những bằng những của cải
dư thừa mà ngay cả bằng những của cải cần thiết” (GS 88). Dựa theo đó, các văn
kiện xã hội của Giáo hội nhấn mạnh đến sự cần thiết phải cố gắng tiến đến việc
san sẻ tài sản giữa thế giới thứ nhất và thế giới thứ bốn. Trong thông điệp Sollicitudo rei socialis, Đức thánh cha Gioan Phaolô II, theo gót
các giáo phụ, đã đề nghị bán những đồ trang trí trong các đền thờ, để lấy tiền
cung cấp cơm ăn, thức uống, áo mặc và nhà cửa cho những ai thiếu thốn[48].
Vào thời nay, Giáo hội không chỉ tham gia vào việc giúp đỡ
người nghèo bằng việc loan báo đạo lý về sự công bình và phát triển toàn diện
con người, nhưng còn tích cực tham gia vào công cuộc ấy qua rất nhiều tổ chức
được khởi xướng và điều hành bởi các tư nhân, hiệp hội, giáo xứ và giáo phận,
dòng tu cũng như qua việc điều phối từ cơ quan trung ương. Ở đây, chỉ cần nhắc
đến hai định chế đã được nhiều người biết đến. Một là Hội đồng giáo hoàng “Cor unum” do ĐTC Phaolô VI thiết lập ngày
15/7/1971, với nhiệm vụ là “thúc đẩy việc huấn giáo về đức bác ái và khuyến
khích các tín hữu làm chứng tá cho tình thương Kitô giáo; phối hợp các sáng kiến
của các cơ quan công giáo nhắm giúp đỡ sự phát triển nhân bản”[49].
Hai là Liên minh Caritas Internationalis,
phối hợp công tác của 165 tổ chức cứu trợ tại các quốc gia, giáo phận, đang hoạt
động trong 200 nước trên thế giới.
Kết luận
Khi nhìn lại lịch sử hai mươi thế kỷ hoạt động bác ái của
Giáo hội, Đức thánh cha Benedicto XVI, trong thông điệp Deus caritas est, đã đi đến kết luận là
công tác bác ái không phải là phản ứng cấp thời trước một vài hoàn cảnh tai họa
nào đó, nhưng nằm trong bản tính của Giáo hội. Thông điệp đã bắt đầu bằng việc
suy niệm về Thiên Chúa là cội nguồn tình yêu, để rồi đi đến kết luận là tình
yêu cũng là yếu tố định nghĩa căn tính và sứ mạng của Giáo hội. Mặc dù ngày nay
có nhiều tổ chức bác ái được thiết lập do các cơ quan Nhà Nước hoặc các tổ chức
phi chính phủ, nhưng Giáo hội không chấm dứt bổn phận làm chứng cho tình yêu
Thiên Chúa.
Cách riêng, trong phần thứ hai (các số 19-39), thông điệp đã
trả lời hai câu hỏi quan trọng:
- Một, Giáo hội có thể nhường lại công việc phục vụ bác ái
cho các tổ chức nhân đạo khác không? Câu trả lời là: không được, bởi vì Giáo hội
cần phải thực hành tình yêu tha nhân với tư cách là “cộng đồng tình yêu”; nếu
không, thì Giáo hội sẽ loan báo Thiên Chúa tình yêu một cách bất toàn.
- Hai, có cần phải tiến một trật tự thế giới công bình, trong
đó sẽ không còn người túng quẫn và nhờ vậy việc bác ái sẽ trở thành thừa thãi
không? Câu trả lời là: mục đích của chính trị là tạo ra một trật tự công bình
trong xã hội, trong đó mỗi người được nhìn nhận quyền lợi của mình, và không
còn ai phải lâm cảnh cực khổ nữa. Công lý là mục tiêu thực sự của chính trị
cũng tựa như hòa bình, (mà không thể nào có hòa bình nếu không có công lý). Việc
tìm kiếm trật tự công lý là nhiệm vụ của lý trí, cũng như việc chính trị là
công việc chung của tất cả mọi công dân. Tiếc rằng, lý trí thường bị mù quáng bởi
những ích lợi riêng tư và ý muốn chiếm giữ quyền lực. Bởi vậy, đức tin đến để
thanh luyện lý trí, hầu giúp cho nó nhìn thấy và quyết định đúng đắn. Vì thế
vai trò của Giáo hội là chữa lành lý trí và củng cố ý muốn làm điều thiện. Dưới
phương diện này, Giáo hội tham gia vào việc tranh đấu cho công lý, tuy không
làm chính trị. Dù vậy, nói thế vẫn chưa đủ: cần phải thêm rằng công lý sẽ không
bao giờ khiến cho tình yêu trở nên thừa thãi. Con người luôn luôn cần đến tình
yêu, và tình yêu mang lại cái hồn cho công lý. Trong một thế giới mà chúng ta
đang trải nghiệm hiện nay, không cần dài dòng về điểm này. Thế giới đang chờ đợi
chứng tá của tình yêu Kitô giáo được gợi lên từ đức tin. Trong thế giới đen tối
hiện nay, tình yêu sẽ làm bật chiếu lên ánh sáng của Thiên Chúa[50].
Đề tài này đã được trình bày trong các bài khác của số báo
này, vì thế không cần dài dòng ở đây. Lịch sử của Giáo hội, cũng như của bất cứ
thể chế nào của loài người, gồm những bức tranh sáng và tối, nhân đức và tội lỗi.
Tiếc rằng có người chỉ nhìn thấy bộ mặt trái với những thiếu sót, cũng như có
người chỉ muốn ca ngợi bộ mặt sáng bằng việc đề cao các nhân đức thánh thiện.
Đúng ra, Giáo hội tự bản chất là thánh thiện, nhưng gồm bởi các thành phần tội
lỗi, như ta có thể đọc ở số 827 của sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, lặp lại
giáo huấn của Lumen gentium (số
8), và vì thế phải không ngừng sám hối và canh tân. Dù sao, phải nhìn nhận rằng
lòng bác ái là dấu chỉ hùng hồn nhất cho sự thánh thiện của Giáo hội, và cuối
cùng cho chính Thiên Chúa là tình yêu (Ga 13,35).
[1]
Tác giả là giáo sư đại học Salamanca (Tây Ban Nha), và chuyên gia về lịch sử
linh đạo. Bài này trích từ Praxis de la
caridad en la Iglesia. Historia y teología de la caridad, đăng trên:
Salmanticensis vol 44 (1997) 203-238, và được bổ sung với bài La caridad como presencia de la Iglesia en la
sociedad, in: Revista de espiritualidad 67 (2008) 93-122.
[2]
Vài tác phẩm về lịch sử bác ái: L. Lallemand, Histoire de
la charité, 4 vols., 1902-1912; Michel Riquet, La caridad de Cristo
en acción (Desde los orígenes hasta san Vicente de Paúl), Andorra, Casal I Valí, 1962; W. Líese, Geschichte
der Caritas, 2 vols., 1922; R. Hermann, La charité
de l'Église de ses origines à nos jours, Mulhouse, Ed. Salvator,
1961; F. De Champagny, La charité chrétienne dans
les premiers siècles de l'Eglise, Paris, 1854.
[3]
Paul Christophe, Para leer la historia de la pobreza,
Estella, EDV, 1989, p. 11 (nguyên tác bằng tiếng Pháp: Les pauvres et la pauvreté des origines à nos jours, 2
vol. Paris 1985-1987).
[4]
Apología, 16, 7-8
[5] Apología,
15, 2-3; 67, 1.6-7.
[6] Apologético,
39.
[7] HE VI,
43, 11; IV, 23, 10.
[8]
B. Llorca, Historia de la Iglesia católica, I,
Madrid, BAC, 1964, pp. 841-842.
[9]
Louis Prunell, Les pauvres e l'Église, en DAFC, 3, 1681-1682, được
trích dẫn trong M. Riquet, La caridad de Cristo en
acción, p. 53. Xem
thêm P. Christophe, Para leer la historia de
la pobreza,
p. 49.
[10] X. Michel Riquet, La caridad
de Cristo en acción, pp.
54-55.
[11]
Du Cange, Constantinopolis christiana. Trích dẫn
trong H. Leclerq, Charité,
in DACL,
III (l.°), 652.
[12]
H. Leclerq, Charité, in: DACL, III, 646; H.
Grégoire, Nueva historia de la Iglesia, I,
Madrid, Cristiandad, 1964, p. 243.
[13]
Như thánh Hieronimo kể lại trong thư số 77 gửi Oceano, trong: Cartas de san Jerónimo, I, Madrid, BAC, 1962, pp. 725-726 y 730-731.
[14]
Vài thông tin cụ thể có thể đọc trong Michel Riquet, La caridad de Cristo en acción, pp. 56-78; P. Christophe, Para leer la historia de
la pobreza,
pp. 50-52.
[15] Didaché,
4, 8; Giustinô, Apología, 67, 1; Tertulianô, Apologético, 39.
[16] Didaché,
4, 6; Pastor Hermas, Ẩn dụ 5, 3-7.
[17]
Clementê Alêxandria, Quis dives salvetur?,
passim.
[18]
Pastor Hermas, Ẩn dụ
II, 3, 4.
[19]
T. Ignaxiô Antiokía, Thư gửi hội thánh Smyrna,
6, 2. T. Clementê Alexandria, Quis dives salvetur,
29.
[20]
T. Basiliô, Regulae fusius tractatae, Interr. III, 1; Interr. VII. Những
tư tưởng xã hội của các giáo phụ, bên Đông cũng như bên Tây, được thu thập
trong tuyển tập của: R. Sierra Bravo, El mensaje social de los
Padres de la Iglesia, Madrid,
Ciudad Nueva, 1989.
[21]
T. Augustinô nói rất nhiều về việc các của cải dư thừa của người giàu thì thuộc
về người nghèo, Khảo luận về Tin Mừng thánh Gioan, 50, 6; Chú giải các thánh vịnh 147, 12; Sermones, 206, 2.
[22]
Vài bản văn điển hình của các giáo phụ: T. Basilio, Destruam
horrea mea,
2 và 5. Regulae brevius tractatae, Interr. 92; T. Gioan Kim
khẩu, Super Lázarum, Hom. 6, 8. Những bài giảng về Tin Mừng Matthêu 77, 4. Những bài giảng về 1 Timothe, 2; T Asterio Amaseno, Bài giảng về người quản gia bất lương PG 40, 180-184; T. Ambrôsiô,
Libro de Nabot, Jezraelita, 53; T. Grêgoriô Cả, Regula Pastoralis, II, 21.
[23]
T. Basiliô, Destruam horrea mea,
7; T. Gioan Kim Khẩu, Super Lázarum,
Hom. 2, 4 y 6. Khi bị phê bình là quá nặng lời với người giàu, thánh Gioan Kim
Khẩu nhắc lại là ngài không xét đoán họ vì là người giàu nhưng vì là kẻ trộm cắp
bởi vì đã chiếm đoạt điều thuộc về các người nghèo Xc. Sobre
Eutropio,
Hom. 2, 3. Họ phạm tội sát nhân, bởi vì còn tệ hơn súc vật, họ đã để cho người
khác chết đói khi mình có thể cứu được. Xem thêm: T. Basiliô, Bài giảng trong thời đói kém hạn hán,
7.
[24]
T. Grêgôriô Nazianzô, Về tình yêu dành cho những
người nghèo. Diễn từ XIV, 8; T. Grêgôriô Nyssa, Về những người nghèo cần được yêu thương Diễn
từ I; T. Gioan Kim Khẩu, Những bài giảng về Tin Mừng
Matthêu 88, 3, 89, 4. Người nghèo là hiện thân của Đức
Kitô, là hình ảnh của Người: T. Cyprianô, Về
y phục của các trinh nữ, II; T. Ambrôsiô, Chú giải Thánh
Vịnh, Tv 118,
Sermo 10, 26; T. Lêô Cả, Sermo 9, 2.
[25]
Về tình yêu dành cho những người nghèo, Diễn từ XIV, 14.
[26]
T. Cyprianô, Về các việc lành và việc bố thí,
II.. T. Lêo Cả, Sermo,
89, 6. T.
Grêgoriô Cả, Các bài giảng sách Tin Mừng
1, 16 (PL 76, 1137).
[27]
Mãi đến gần đây, chế độ nô lệ vẫn còn tồn tại tại các quốc gia Kitô giáo, và điều
này đã gây tranh cãi bên trong cũng như bên ngoài Kitô giáo. Chế độ nô lệ đã hiện
hành từ các nền văn hóa lâu đời, phải chăng Kitô giáo chấp nhận “hội nhập văn
hóa” thay vì tố cáo chế độ bất công? Chúng tôi không muốn đi sâu vào vấn đề ở
đây, nhưng chỉ muốn ghi nhận phản ứng của vài giáo phụ. T. Gregori Nyssa đã cực
lực lên án chế độ nô lệ trong Bài giảng IV về
sách Giảng huấn. Nhiều đan viện chấp nhận ứng sinh bất kể là thành
phần nô lệ hay tự do, chẳng hạn luật thánh Biển đức 2, 18. 20. Về thái độ của
Giáo hội đối với chế độ nô lệ, x. Gustav Schnürer, La Iglesia y
la civilización occidental en la Edad Media, I, Madrid, FAX, 1955.
[28]
Chú thích của người dịch. Ngày nay, danh từ hospital
được dịch là “bệnh viện”; nguyên gốc của nó là nơi đón tiếp các lữ khách (hospes, hospitium), thường được hiểu về những
người đi hành hương bên thánh địa. Họ cần nơi đón tiếp và chăm sóc sức khỏe sau
hành trình dài.
[29]
Xc. Michel Vauchez, La santità nel Medioevo, Bologna, Il Mulino, 1989, pp. 116, 124, 159-162, 340, 352-353.
[30]
Về điểm này, xem A. Vauchez, La espiritualidad del
Occidente medieval, Madrid, Cátedra, 1985, pp. 109-110.
[31]
Các bản văn được trưng dẫn trong J. I. González Faus, Vicarios de
Cristo, Madrid, Trotta, 1991, pp. 85, 125, 133-134.
[32] A. Vauchez, La espiritualidad del Occidente medieval, p. 119.
[33]
Pedro Lombardo, Bài giảng về việc bố thí, PL 178,
564-567, trong: J. I. González Faus, op.
cit., p. 91.
[34]
Về cuộc tranh luận của nhóm Spirituales, xem: R. G. Villoslada, Historia de la Iglesia católica, III, Madrid, BAC, 1960, pp. 60
y 72-78. Những bản văn phê bình việc sử dụng tài sản Giáo hội được trich đăng
trong J. I. González Faus, Vicarios
de Cristo: Guigo, Thư gửi hồng y Aimeric
(pp. 98-100); Jean de Cardaillac, Nhật ký (p. 131); T. Bênarđô, De consideratione,
I, 9 (p. 94); T. Catalina Siena, Đối thoại, 127 (pp. 136-137).
[35]
Các đoạn văn của các tác giả trưng dân có thể đọc trong J. I. González Faus, Vicarios de Cristo: T. Phêrô Đamiani, Opúsculo
sobre la limosna (pp. 87-88), Carta a sus ermitaños (p. 87); Phêro Abelardo, Sermón sobre la limosna (p. 91); T. Tôma Aquino, Summa, II-II, q. 76 a. 7 (pp. 127-128).
[36] Xc Michel Riquet, La
caridad de Cristo en acción, pp. 131-154; P.
Christophe, Para leer la historia de la pobreza,
pp. 119-176.
[37]
Những lời lẽ cứng rắn được trích dẫn trong J. I. González Faus, Vicarios de Cristo, pp. 171-175.
[38]
Về các tác giả được nhắc đến, xem: Juan
Ignacio Carmona García, “La asistencia social en la España de los Austrias”,
in: AA. VV., Cuatro siglos de acción social. De la
beneñcencia al bienestar social,
Madrid. Siglo XXI, 1988, pp. 69-88.
[39]
Những bản văn được trưng dẫn trong J. I. González Faus, Vicarios de Cristo, trang 237-264, kèm theo những
hệ luận ở các trang 265-268.
[40]
Về tình trạng của người nghèo trong xã hội vào thời cách mạnh Pháp, xe. P.
Christophe, Para leer la historia de la pobreza,
pp. 177-194; J. I. González Faus, Vicarios
de Cristo, pp. 271-278. Về các “nhà thương” ở Tây Ban Nha trong
khoảng thời gian 1750-1800, người ta ước lượng có khoảng 100 cơ sở, đón nhận
11.786 người nghèo. Xc Pedro Trinidad Fernández, “Asistencia y previsión social
en el siglo xviii”, in: Cuatro siglos de acción
social, pp. 92-96.
[41]
Xc. Pedro Trinidad Fernández, “Asistencia y previsión social en el siglo xviii”,
in: AA.VV., Cuatro siglos de acción social, pp. 89-115; F. Álvarez
Uría, «Los visitadores del pobre. Caridad, economía social y asistencia en la
España del siglo xix», ib., pp.
119-146.
[42]
Chú thích của người dịch. Khi nói đến “Giáo hội” và “Chính quyền”, tác giả hiểu
về hoàn cảnh của nước Tây Ban Nha nói riêng và Tây Âu nói chung.
[43]
Xc. J. Álvarez Gómez, Historia de la vida
religiosa, III, Madrid, Publicaciones
Claretianas, 1990, p. 530. Ilustra el tema F. Fernández Uría, “Los visitadores
del pobre...”, o. c., pp. 119-128.
[44]
González Faus, Vicarios de Cristo, p. 273.
[45]
Bài nghiên cứu này chỉ giới hạn trong phạm vi Giáo hội Công giáo. Chúng ta cần
phải nhìn nhận những “anh hùng bác ái xã hội” ở các giáo hội khác nữa, chẳng hạn
như Albert Schweiser, Martin Luther King, Desmond Tutu, v.v..
[46]
Diễn từ ngày 29 tháng 9 năm 1963, số 51.
[47]
Diễn từ ngày 7 tháng 12 năm 1965, số 14.
[48]
Thông điệp Sollicitudo rei socialis,
số 31, trích dẫn các giáo phụ Gioan Kim khẩu, Ambrosiô và Augustinô. .
[49]
Trong cuộc cải tổ giáo triều Rôma dưới thời ĐTC Phanxicô, Hội đồng này được sát
nhập, cùng với các Hội đồng Công lý và Hòa binh, Mục vụ Di dân, Mục vụ nhân
viên y tế, thành một cơ quan cấp Bộ mang danh là “Phục vụ sự phát triển toàn diện
con người”.
[50]
Trích lời giới thiệu thông điệp Deus caritas
est do chính ĐTC Bênêdictô XVI viết cho các độc giả của tuần báo Famiglia cristiana tiếng Ý, số 6, năm
2006.