Thời sự Thần học – Số 4 (Tháng 12/2009), tr. 150-159
_Thomas D. Williams_
Khoa trưởng phân khoa thần học, Đại học Nữ Vương các Tông Đồ, RômaSự tương đồng giữa việc huấn luyện các linh mục giáo phận và dòng tu đã được lịch sử Giáo hội xác nhận qua sự kiện: Các giám mục thường ủy thác công tác đào tạo các giáo sĩ cho các cộng đoàn dòng tu. Vào thế kỷ 4, khi đời sống đan tu vừa xuất hiện, giám mục Vercelli, thánh Eusebio đã thống nhất đời sống đan tu và giáo sĩ theo mô hình truyền thống đan tu đông phương. Và vào thế kỷ 5 tại Hippo dưới thời thánh Âu tinh cũng vậy. Sau này công đồng Trento ra sắc lệnh thiết lập chủng viện giáo phận năm 1563, Đức Piô IV trao phó việc huấn luyện chủng sinh cho dòng Tên. Dưới sự bảo trợ của ngài chủng viện khánh thành năm 1565.
Bài viết này, muốn nêu bật sự chia sẻ những thuộc tính chung (commonality) của chức linh mục giáo phận và dòng tu theo gợi ý của sắc lệnh về đào tạo linh mục Optatem Totius của công đồng Vat II và tông huấn : “Những mục tử như lòng mong ước”(Pastores Dabo Vobis – PDV) của Đức Gioan Phaolô II: “mỗi linh mục là triều hoặc dòng, được liên kết nên một với các thành phần khác thuộc linh mục đoàn, tùy theo bí tích truyền chức thánh, bằng những mối liên hệ riêng biệt về đức ái Tông đồ, về thừa tác vụ và về tình huynh đệ. Thật vậy, tất cả các linh mục triều hoặc dòng đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Đức Kitô là đầu và mục tử”
Để hiểu rõ hơn những điểm đồng qui này chúng ta sẽ nói đến những chiều kích khác nhau về sự đào tạo các linh mục “chiều kích nhân bản, chiều kích tâm linh, chiều kích trí thức và chiều kích mục vụ.
Nhưng trước hết cần xem xét vắn tắt bản chất của chức linh mục thừa tác, vì là yếu tố qui định nhu cầu đào tạo các ứng viên linh mục.
1. CHỨC LINH MỤC THỪA TÁC
Mục tiêu qui định phương tiện. Lộ trình chỉ được phác họa một khi điểm tới (cứu cánh) đã được xác định. Trong quá trình đào tạo linh mục, ngoài những quan tâm về tính cách cá nhân mỗi người, ứng viên không thể không xác định cho mình cứu cánh hay lý tưởng là Đức Kitô linh mục. Vì thế các ứng viên cũng như các nhà đào tạo của họ phải có một điểm qui chiếu thường xuyên được phát biểu với câu hỏi: “Tôi được ơn gọi để trở nên mô hình nào? Sự thành công của chương trình đào tạo lệ thuộc vào tính minh bạch và chính xác khi trả lời câu hỏi này hơn là dựa vào chiến thuật đào tạo đặc thù. Vì thế, Đức Gioan Phaolô II trong PDV nhận xét: “Vấn đề đào tạo linh mục không thể nào giải quyết nếu trước đó không suy nghĩ về cứu cánh của tiến trình đào tạo. Cứu cánh đó chính là chức vụ linh mục thừa tác với tư cách tham gia vào chính chức linh mục của Chúa Giêsu Kitô, trong Giáo hội” (số 11). Sự mơ hồ về căn tính linh mục sau công đồng Vat II đã là yếu tố quyết định gây nên thất bại trong tiến trình đào tạo linh mục ở nhiều nơi cả triều lẫn dòng.
Đặt ra được câu hỏi chính xác này mặc dầu không đảm bảo chương trình đào tạo đương nhiên thành công, ít ra cũng đề ra được một điểm khởi hành chắc chắn và sự đánh giá sâu sắc cho công tác huấn luyện linh mục.
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Do thái đã đề xuất một khởi điểm hữu ích, trong đó chúng ta đọc: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội” (Dt 5, 1). Qua cách diễn tả cô đọng này, chúng ta phân biệt: Trước hết linh mục là người được tuyển chọn nghĩa là không ai đón nhận vinh dự và nhiệm vụ này dựa trên năng lực của chính mình. Linh mục được Thiên Chúa mời gọi (Dt 5, 4). Tin mừng cũng tuyên bố tương tự: Khi tuyển chọn các Tông đồ, Chúa Giêsu mời gọi đến với Người những kẻ Người muốn”(Mc 3, 13). Bản chất chức linh mục là một sự tuyển chọn tự do về phía Thiên Chúa, do đó, đòi hỏi một sự trân trọng sâu sắc về phía ứng viên chức linh mục cũng như những ai có liên hệ đến công tác đào tạo linh mục. Chức linh mục không đơn thuần là một sự chọn lựa nghề nghiệp tương ứng với tài năng và sở thích của mỗi người. Đúng hơn, nó phản ánh kế hoạch nhiệm mầu của Đấng sáng tạo vì vậy cần trọng kính với một tinh thần đức tin thẳm sâu.
Chức linh mục cũng không phát xuất từ dòng dõi được biệt đãi hay tầng lớp tư tế ưu tú nhưng được chọn từ giữa những người phàm nghĩa là cùng chia sẻ tình trạng yếu đuối của con người. Chính Thiên Chúa đã dủ lòng kêu gọi những con người yếu đuối tham gia vào dự án cứu độ và thánh hóa của Ngài. Ý định của Chúa Cha: “chọn những gì là điên dại trong thế gian thể hạ nhục những kẻ khôn ngoan và chọn những gì là yếu kém để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” (1 Cr 1,27). Thánh Phaolô vừa muốn nhấn mạnh một hiện thực mà cả nhà đào tạo lẫn ứng viên phải tiếp cận trong tiến trình đào tạo, vừa không ngừng tin cậy vào hồng ân Thiên Chúa. Những nguyên tắc này hiển nhiên vượt trên những chuyên môn kỹ thuật đào tạo vì đi vào tận trung tâm của chính chức linh mục.
Người linh mục “được đặt lên làm đại diện cho loài người trong các mối tương quan với Thiên Chúa để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội”. Mặc dầu, ngài có thể xuất chúng với những kỹ năng tổ chức và điều hành hay một nhà phân tích kinh tế, chính trị sắc sảo, ngài nhất thiết vẫn là người của Thiên Chúa (J. P.II), sứ vụ trọng tâm của ngài vẫn là nhà quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa hay nói cụ thể là các bí tích.
Các chiều kích khác nhau của vấn đề đào tạo linh mục được phân tích dưới đây tương tự như những cành cây của một thân cây là chính chức linh mục
2. ĐÀO TẠO NHÂN BẢN
Đức Gioan Phaolô II trong tông huấn “những mục tử như lòng mong ước” (PDV) đã khẳng định: đào tạo nhân bản là “nền tảng của công tác đào tạo linh mục” và “không có đào tạo nhân bản thỏa đàng, thì việc đào tạo linh mục trong toàn bộ sẽ thiếu hụt mất nền tảng cần thiết” (43). Khẳng định trên không có nghĩa là đào tạo nhân bản ưu tiên hơn đào tạo thiêng liêng và mục vụ, nhưng chỉ nhằm cung cấp một nền tảng vững chắc có thể xây tòa nhà đời sống thiêng liêng và mục vụ của linh mục. Vì “ân sủng xây dựng trên tự nhiên chứ không thay thế tự nhiên” (S. T.I 1,8 ad.2). Lòng đạo đức và đức ái mục vụ không thể bị lăng mạ chỉ là cái mã bề ngoài che đậy một con người phi nhân bản bên trong. Con người toàn diện cần được hội nhập vào nhân cách linh mục cách chân thực.
Đối với các ứng viên linh mục triều cũng như dòng, mô hình và tiêu chuẩn đào tạo linh mục vẫn là chính bản thân Đức Kitô Giêsu. Linh mục được gọi là hình ảnh sống động của Đức Kitô, “cần phản ánh nơi chính mình, trong mức độ có thể, sự thành toàn nhân bản có thể được rạng chiếu nơi Con Thiên Chúa làm người và như được nhìn xuyên thấu qua các thái độ đầy hiệu năng của Ngài đối với tha nhân, đúng như lời diễn tả của các sách Tin mừng” (PDV, 43). Tin mừng cung cấp cho các linh mục tương lai không chỉ một học thuyết Kitô giáo nhưng còn là bản thiết kế chi tiết cho việc đào tạo và căn tính linh mục nữa.
Khi cân nhắc việc đào tạo nhân bản của các ứng viên linh mục, Công đồng Vat II đòi hỏi họ phải đạt được sự trưởng thành nhân bản, một điều kiện tiên quyết cho đời sống linh mục. Mức trưởng thành này được kiểm nghiệm qua đức tính cương nghị, qua khả năng quyết định chín chắn và một óc phê phán xác đáng về con người và các biến cố (O. T. 11). PDV còn thêm “mọi nền đào tạo, kể cả đào tạo linh mục, cuối cùng là một công cuộc tự đào tạo. Quả vậy, không ai có thể trám chỗ cho tự do hữu trách của mỗi người với tính cách là ngôi vị độc đáo” (69). Một cách cụ thể hơn, Công đồng Vat II khuyên các ứng viên linh mục “phải biết quý chuộng những đức tính mà người đời thường quý chuộng và không thể thiếu nơi các thừa tác viên của Chúa Kitô, thí dụ như lòng thành thực, chuyên lo giữa đức công bình, đức tín trung, cư xử lịch thiệp, khiêm tốn và bác ái trong ngôn từ” (O. T. 11). Lý do là: “để cho thừa tác vụ linh mục được dễ tin hơn và dễ đón nhận hơn, xét theo phương diện nhân bản, linh mục cần phải trau dồi nhân cách của mình sao cho mình trở nên một nhịp cầu, chớ không phải một chướng ngại vật cho tha nhân trong việc gặp gỡ Đức Giêsu Kitô” (PDV, 43).
Hiển nhiên tiến trình đào tạo nhân bản nơi các ứng viên linh mục dòng cũng như triều, khác nhau xét về một số phương diện, tuy nhiên cơ sở hạ tầng của các đức tính nhân bản hầu như trùng khớp cho cả hai.
3. ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG
“Sắc lệnh về đào tạo linh mục” dành cho công tác đào tạo thiêng liêng các ứng viên linh mục một vị trí nổi bật. Vì các linh mục được gọi là người của Thiên Chúa, thừa tác viên các mầu nhiệm thánh thiêng, theo Công đồng, việc đào tạo thiêng liêng “sao cho các ứng viên biết luôn luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Cha nhờ Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần” (O. T. số 8).
Theo viễn tượng đức tin Kitô giáo, người tín hữu không tìm kiếm một linh đạo đại loại (generic) cốt sao lấp đầy khoảng trống tâm linh. Sự tìm kiếm Kitô giáo tập trung vào thân vị Đức Kitô. Tìm kiếm Đức Kitô, nhận biết, yêu mến và bước theo Ngài trở thành niềm đam mê của hiện sinh Kitô giáo. Nếu khảo hướng Kitô giáo đúng là như thế, tất yếu phải đúng hơn đối với ứng viên chức linh mục vì họ được mời gọi để trở thành những Kitô khác và cử hành những mầu nhiệm thánh, nhân danh Đức Kitô.
Nếu đào tạo nhân bản các ứng viên trùng khớp nhau đáng kể giữa các ứng viên dòng tu và giáo phận thì đào tạo thiêng liêng còn phải trùng khớp hơn. Cứ cho là các cộng đoàn dòng tu nắm giữ phẩm chất đặc trưng các linh đạo thích hợp với đặc sủng mỗi hội dòng, trong khi các ứng viên linh mục giáo phận đòi hỏi tính đại đồng để có thể đón nhận mọi Kitô hữu bất kể tâm tình đạo đức cá nhân mục tử theo khuynh hướng nào. Còn sự tham dự vào chức linh mục thừa tác của Đức Giêsu Kitô hàm chứa những đòi hỏi thiêng liêng ảnh hưởng đến mọi linh mục cách đồng đẳng không phân biệt triều hay dòng. Rõ ràng có một linh đạo thích hợp cho chức linh mục mời gọi mọi ứng viên chia sẻ: “việc đào tạo thiêng liêng cần phải được cơ cấu hóa tùy theo ý nghĩa và đặc tính phát xuất từ căn tính và thừa tác vụ của linh mục… Đối với mọi linh mục, việc đào tạo thiêng liêng phải là tâm điểm, phải tạo sự thống nhất cũng như sức sống cho hữu thể và hành động của linh mục” (PDV 45). Sắc lệnh về đào tạo linh mục cũng viết “vì được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô linh mục, do phép truyền chức thánh họ phải quen gắn bó với Người như bạn hữu”. Hơn nữa “họ phải được dạy tìm gặp Chúa Kitô trong việc trung thành suy gẫm Lời Chùa trong việc tham dự tích cực của các mầu nhiệm thánh của Giáo hội nhất là bí tích Thánh Thể và kinh nguyện thần vụ” (O. T. 8).
Một linh mục được gọi không chỉ để trở thành con người cầu nguyên nhưng còn là thầy dạy sự cầu nguyện. Linh mục chỉ có thể huấn luyện kẻ khác trong trường học cầu nguyện nếu chính ngài đã được huấn luyện trong trường đó. Mặc dầu chương trình đào tạo trong giáo phận thường không gồm một thời kỳ huấn luyện thiêng liêng như thời gian “năm tập” của dòng tu, nhưng thực tế họ cũng có một năm dự bị dành cho mục đích này. “Để cho việc huấn luyện thiêng liêng có căn bản vững chắc và để các ứng viên quyết chí theo đuổi ơn gọi thiên triệu với sự chấp nhận đã cân nhắc chín chắn, các giám mục có bổn phận ấn định một thời gian thích hợp cho việc huấn luyện thiêng liêng sâu rộng hơn” (O. T. 12).
Ngoài ra Công đồng còn nhấn mạnh về chiều kích Giáo hội của linh đạo linh mục: “Các ứng viên phải thấm nhuần mầu nhiệm Giáo hội” bằng cách “gắn bó với vị đại diện Đức Kitô trong sự khiêm tốn và đức ái tín thác và một khi đã lãnh nhận chức linh mục, họ luôn liên kết với Giám mục của mình như những cộng tác viên tín cẩn và tiếp tay cộng tác với các anh em linh mục khác” (O. T. 9). Các ứng viên linh mục dòng cũng như triều phải được dạy vượt qua não trạng Giáo hội địa phương để tham gia với trái tim quảng đại vào cuộc sống của toàn thể Giáo hội: “phải dạy cho họ biết mở rộng tâm hồn tham gia một cuộc sống của toàn thể Giáo hội như lời thánh Âu tinh “kẻ nào cũng yêu mến Giáo hội Chúa Kitô cũng có Chúa Thánh Thần” (O. T. 9).
4. ĐÀO TẠO TRÍ THỨC
Linh mục là người của Chúa, là sứ giả của Đức Kitô nên sự đào tạo trí thức cũng phải phản ánh lý tưởng đó. Các linh mục chia sẻ thừa tác vụ của Đức Kitô về ba phương diện: linh mục, ngôn sứ và vương giả. Do vai trò ngôn sứ các linh mục được tuyển chọn là thầy dạy về phương diện này cũng không có sự khác biệt thiết yếu giữa linh mục giáo phận và dòng tu. Là những thừa tác viên Lời Chúa, các linh mục được kêu gọi thông chuyển cách trung thành những điều họ đã học từ Đức Kitô: “Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi nhưng là của Đấng đã sai tôi” (Ga 7, 16). Sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục viết “các linh mục mắc nợ với mọi người về chân lý Tin mừng mà các ngài đã nhận được. Vì thế dù khi các ngài bước vào một đối thoại phúc lợi với dân ngoại nhằm đem họ đến tôn vinh Thiên Chúa, dù khi ngài công khai giảng thuyết để loan báo mầu nhiệm Chúa Kitô cho những người chưa tin, dù khi chăm lo nghiên cứu những vấn đề thời đại dưới ánh sáng Chúa Kitô, trong mọi trường hợp các ngài không được tin cậy vào sự thông biết của mình nhưng là tin cậy vào Lời Chúa và phải khẩn thiết mời gọi mọi người cải thiện và nên thánh”(4), vì thế linh mục phải nắm vững đạo lý Kitô giáo, không phải chỉ vì lợi ích thiêng liêng cho riêng mình nhưng trên hết vì họ được kêu gọi để giảng dạy cho kẻ khác và giúp họ đạt tới sự thành toàn đức tin: “bởi vậy với tư cách là những nhà giáo dục thấm nhuần đức tin, các linh mục có nhiệm vụ hoặc đích thân hoặc nhờ người khác hướng dẫn mỗi người trong Chúa Thánh Thần để họ phát triển ơn gọi của riêng họ phù hợp Tin mừng để họ có một đức ái chân thành và thực tiễn để họ đạt tới sự tự do mà Đức Kitô đã dùng để giải thoát chúng ta” (P. O. 6).
Ngoài ra trình độ trí thức của dân chúng ngày nay cũng được nâng cao và não trạng quần chúng cũng thay đổi nhiều nên Đức Gioan Phaolô II nhắc nhở các linh mục: “hoàn cảnh hiện tại được đánh dấu sâu đậm bởi một thái độ tôn giáo dửng dưng, đồng thời bởi một sự ngờ vực không mấy minh bạch về khả năng thực thụ của lý trí trong việc đạt thấu chân lý khách quan và phổ quát, hơn nữa bởi những vấn nạn mới do các phát minh khoa học và kỹ thuật khơi dậy, tất cả những điều ấy biện minh cho sự đòi hỏi mãnh liệt phải có một trình độ đào tạo trí thức ưu tú nhằm giúp cho các linh mục, trong một bối cảnh như thế, có thể loan báo Tin mừng bất biến của Đức Kitô và làm cho Tin mừng ấy trở nên đáng tin cậy trước những đòi hỏi chính đáng của lý trí con người” (PDV 51). Cả phương diện này nữa, một sự phân biệt trong việc đào tạo trí thức giữa linh mục triều và dòng tỏ ra không thích hợp. Đức Gioan Phaolô II còn nhấn mạnh đặc biệt về việc đào tạo triết học cho các ứng viên linh mục như sau: “Việc học triết học được coi là tối cấp thiết, trước hết vì lý do có mối liên hệ giữa những vấn đề triết học, với các mầu nhiệm cứu độ được nghiên cứu trong thần học dưới ánh sáng đức tin, sau nữa vì lý do tình trạng văn hóa hiện nay quá hỗn độn, với sự kiện chủ nghĩa duy chủ thể được đề cao và được coi như thước đo và tiêu chuẩn của chân lý. Trong điều kiện như thế, chỉ có một nền triết học lành mạnh mới có thể giúp cho các ứng sinh linh mục phát triển ý thức và tư duy về mối quan hệ thiết định giữa trí óc của con người với chân lý, một chân lý được mạc khải trọn vẹn cho chúng ta nơi Đức Giêsu Kitô. Không được làm giảm thiểu tầm quan trọng của triết học bằng cách nại cớ phải bảo toàn niềm “xác tín về chân lý” mặc dầu chỉ có niềm xác tín này mới có thể làm nền tảng cho việc trao hiến trọn vẹn con người cho Đức Giêsu và cho Giáo hội” (PDV, 52). Về thần học, sắc lệnh về đào tạo linh mục viết “Phải dạy các môn thần học để các ứng viên chăm chú múc lấy học thuyết Công giáo từ nguồn mạc khải của Chúa thấu triệt rồi biến thành lương thực nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của họ. Lại có thể rao giảng, trình bày cũng như bảo toàn học thuyết ấy trong khi thi hành chức vụ linh mục” (O. T. 16).
Và theo Đức Gioan Phaolô II, có một mối liên hệ giữa việc nghiên cứu triết học, thần học và việc chu toàn thừa tác vụ mục vụ “nhờ việc nghiên cứu, nhất là thần học, người linh mục tương lại đón nhận Lời Chúa, lớn lên trong đời sống thiêng liêng và có được tư thế sẵn sàng chu toàn thừa tác vụ linh mục” (PDV, 51).
5. ĐÀO TẠO MỤC VỤ
Về phương diện này, sắc lệnh về đào tạo linh mục đã khẳng định: “Việc đào tạo toàn diện các ứng viên linh mục phải nhằm huấn luyện cho họ thực sự trở thành những vị mục tử các linh hồn theo mô hình Đức Giêsu Kitô là Thầy, là linh mục và mục tử” (O. T. 4). Bản chất chức linh mục thừa tác theo tinh thần Đức Kitô, mục tử các linh hồn có thể áp dụng cho cả chức linh mục giáo phận và dòng tu. Do đó, việc đào tạo nhằm đạt được mục tiêu này cũng chung một nẻo đường. Sắc lệnh về đào tạo các linh mục, đòi hỏi sự đào tạo mục vụ cần nhấn mạnh yếu tính của sứ vụ linh mục: “mối quan tâm về mục vụ phải chi phối tất cả việc đào tạo các ứng viên linh mục, nên cũng đòi hỏi các ứng viên phải được cẩn thận giáo huấn về những gì đặc biệt liên quan đến thừa tác vụ thánh, nhất là việc dạy giáo lý và giảng thuyết, việc phụng tự và cử hành các bí tích, về các công cuộc bác ái, tìm đến với các chiên lạc và những người vô tín ngưỡng cùng những công tác mục vụ khác” (O. T. 19). Các yếu tố thiết yếu của đào tạo mục vụ liên kết trực tiếp với yếu tính của thừa tác vụ mục vụ.
Việc đào tạo mục vụ và đào tạo thiêng liêng liên kết chặt chẽ với nhau, tuy bề ngoài có vẻ không có liên hệ gì với nhau: “thế nhưng việc học hỏi và sinh hoạt mục vụ lại quy về một nguồn mạch bên trong mà nền đào tạo sẽ phải quan tâm bảo toàn và đề cao: đó là sự hiệp thông ngày càng sâu đậm hơn vào đức ái mục vụ của Chúa Giêsu. Cũng như mục vụ đã tạo thành nguồn cội và sức mạnh cho hoạt động cứu chuộc của Đức Giêsu cũng vây, mục vụ còn phải nhờ sự tuôn đổ thần khí trong bí tích truyền chức thành, tạo thành nguồn cội và sức mạnh cho thừa tác vụ linh mục” (PDV, 57).
Cũng trong tông huấn này (những mục tử như lòng mong ước) Đức Gioan Phaolô II tóm tắt tình yêu của người linh mục đối với đồng loại dưới nhan đề “đức ái mục vụ”, theo đó chính căn tính linh mục – Kitô khác – là động lực thúc đẩy công tác đào tạo không bị chệch hướng. Ứng viên linh mục chiêm ngưỡng Đức Kitô, như mô hình và mẫu gương, khám phá nơi ngài người mục tử nhân lành mà người linh mục được mời gọi bắt chước: “Đời sống của Đức Kitô là biểu hiện liên lỉ và còn là sự thực hiện thường nhật “đức ái mục vụ” của Ngài. Ngài động lòng thương xót đám đông bởi vì họ mỏi mệt và kiệt sức như những con chiên không có người chăn (Mt 9,35-36). Ngài đi tìm những con chiên thất lạc và tản mác (Mt 18,12-14), và Ngài reo vui một khi tìm được chúng. Ngài biết chúng và gọi từng con một (Ga 10,3), Ngài dẫn dắt chúng trên những đồng cỏ xanh tươi, tiến về những dòng suối nước êm đềm (Tv 23,22), Ngài dọn bàn ăn cho chúng, lấy chính mạng mình mà nuôi chúng” (PDV, 22).
Nhưng đoàn chiên không phải là những thực thể thụ động nên Công đồng Vat II khuyến khích các linh mục trong công tác đào tạo hướng dẫn và phát động giáo dân dấn thân vào các hoạt động Tông đồ trong ơn gọi riêng của họ. Công đồngđòi hỏi các ứng viên linh mục cả dòng lẫn triều “phải được giáo huấn thế nào để họ biết khích lệ và nâng đỡ hoạt động Tông đồ giáo dân cũng như biết khởi xướng nhiều hình thức hoạt động Tông đồ khác nhau cho hữu hiệu hơn” (O. T. 20). Vai trò thánh hóa, giảng dạy và hướng dẫn của linh mục có ý nghĩa đặc biệt trong sự duy trì, củng cố các giáo dân thể hiện sứ vụ này.
Mặc dầu chương trình đào tạo linh mục thay đổi tùy thuộc mỗi quốc gia, mỗi giai đoạn, mỗi nền văn hóa nhưng những yếu tố căn bản ở mọi nơi vẫn giống nhau. Vì chúng gắn liền với bản chất và căn tính của chính chức linh mục của Chúa Kitô. Mọi cố gắng canh tân việc đào tạo linh mục luôn phải “trở về nguồn” nghĩa là phải giúp ứng viên “mặc lấy tâm tình Chúa Kitô” (Pl 2,5). Bằng cách đáp lại cách trung thành lời mời gọi bản thân để bước theo Ngài và chia sẻ công cuộc cứu độ của Ngài.
Những cố gắng phân biệt những nhu cầu đào tạo hàng giáo sĩ dòng cũng như triều có thể hữu ích bao lâu những điểm đồng qui vượt tội hơn những điểm phân kỳ (divergence). Một sự trao đổi hỗ tương các thiên ân chỉ có lợi cho cả đôi bên.