Thứ Tư, 9 tháng 8, 2017

ĐÀO TẠO LINH MỤC TRONG CÁC DÒNG TU

Tuyên bố dành cho các thành viên của Hội nghị các Bề trên Thượng cấp Hoa Kỳ

Thời sự Thần học - số 57, tháng 8/2012, tr. 34-68

Tài liệu này của Hội nghị các Bề trên Thượng cấp Hoa kỳ được xuất bản hồi tháng 10 năm 2011, kết quả của ba năm làm việc của một ủy ban gồm các bề trên và các nhà đào tạo để suy nghĩ về việc đào tạo linh mục trong các dòng tu. Việc đào tạo linh mục tại các chủng viện nhằm đến mục vụ giáo xứ, còn các tu sĩ làm linh mục để thi hành đặc sủng và sứ vụ của Dòng mình. Vì vậy cần ý thức về sự khác biệt giữa việc đào tạo các chủng sinh và các sinh viên dòng tu. Tài liệu này đã được duyệt xét bởi Bộ Giáo dục Công giáo, Bộ Đời sống thánh hiến, Bộ Giám mục. Tài liệu này được soạn thảo để góp ý cho Hội đồng Giám mục Hoa kỳ nhân dịp soạn thảo ấn bản mới của Chương trình đào tạo linh mục. Chúng tôi hy vọng rằng nó cũng sẽ giúp cho các Dòng tại Việt Nam trong việc soạn thảo chương trình đào tạo, cách riêng sau khi Hội Đồng Giám mục Việt Nam vừa ban hành “Đào tạo Linh mục - Định hướng và chỉ dẫn” dành cho các chủng viện. 
Nguyễn Hoàng Vinh, O.P. chuyển ngữ. Nguồn: Formation for Presbyteral Ministry in Institutes of Religious Life. A Statement to the Members of the Conference of Major Superiors of Men. www.cmsm.org/documents/formation ReligiouspriestsOct2011.

Nhập đề


Bản tuyên bố này đề cập đến một số vấn đề then chốt quan trọng đối với việc đào tạo và giáo dục các ứng viên chức linh mục trong bối cảnh đời sống của các Dòng tu. Là Hội Nghị Các Bề Trên Thượng Cấp (HNBTTC) chúng tôi xác nhận vai trò thiết yếu của chức linh mục trong đời sống của Giáo hội cũng như sự duy nhất của chức linh mục, căn tính chung cũng như bản chất nền tảng của nó dựa theo giáo huấn của Giáo hội. Vì lý do này, HNBTTC luôn ủng hộ Chương trình đào tạo Linh mục (CTĐTLM) quy định việc chuẩn bị ứng sinh linh mục trong các Đại chủng viện giáo phận cũng như các chủng viện do các Dòng đứng đầu.

Vì thế, bản tuyên bố này của HNBTTC không nhằm thêm vào hay thay thế cho CTĐTLM của Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, nhưng là một nguồn hữu dụng cho chính các Dòng tu, nhấn mạnh một số yếu tố đặc trưng của việc đào tạo linh mục trong việc chuẩn bị cho những thành viên tu sĩ lãnh nhận chức thánh. Bản tuyên bố này cũng nhấn mạnh trách nhiệm của các Bề trên thượng cấp của các Dòng trong việc chuẩn bị thành viên của họ lãnh nhận thánh chức.

Bên cạnh đó, chúng tôi nhận thấy văn bản này cũng có thể được sử dụng như một nguồn hữu ích đối với những vị lãnh đạo trong Giáo hội, như giám mục, bề trên thượng cấp, và những người khác để phân biệt cũng như nhìn nhận tiến trình đặc biệt của việc đào tạo linh mục trong các Dòng tu. Tuyên bố này cũng có thể là tư liệu suy tư dành cho các chủ tịch, khoa trưởng, ban giám đốc, các phân khoa và cấp lãnh đạo của các học viện và trung tâm thần học, cho các vị phụ trách đào tạo và các vị cổ động ơn gọi, cũng như cho chính các chủng sinh của các dòng.

Chúng tôi cũng hy vọng nó sẽ thúc đẩy những nghiên cứu toàn diện và chuyên sâu hơn về những vấn đề thần học và mục vụ mà bản văn ngắn ngủi này chỉ lướt qua, liên quan đến kinh nghiệm đời sống của linh mục dòng.

Phải nhấn mạnh rằng bản tuyên bố này không có ý gây lên một cuộc thảo luận mang tính thần học và mục vụ về bản chất của chức linh mục. Nó cũng không tham vọng muốn bàn sâu những vấn đề liên quan tương tự chẳng hạn như hiện trạng mục vụ ở Hoa Kỳ hay nền tảng thần học của tác vụ giáo dân và tương quan của nó với thánh chức. Điểm trọng tâm của nó nằm ở một số khía cạnh của việc đào tạo linh mục dành cho các ứng viên thuộc các dòng tu. Dù mục đích khá khiêm tốn, những điểm nêu lên đều có ý nghĩa quan trọng trong việc hiểu biết chính xác việc đào tạo ấy.

Vì CTĐTLM sắp tái bản lần thứ sáu, trong viễn cảnh chuẩn bị cho ấn bản mới sắp tới, HNBTTC thấy cần phải khôn ngoan chuẩn bị cho tài liệu này, trong đó mô tả một số khía cạnh đặc thù cho việc đào tạo các linh mục dòng. Tuyên bố này cũng được viết sau khi bản báo cáo tổng kết chuyến kinh lý các chủng viện Hoa Kỳ được Bộ giáo dục Công giáo cho ấn hành vào tháng 12 năm 2008, tuy nhiên bản tuyên bố này cũng không nhằm trả lời cho bản báo cáo đó.

Nội dung của bản văn này cũng đã đón nhận những đề nghị được các bề trên thượng cấp và các vị phụ trách đào tạo của các dòng, những người đã được tham khảo rộng rãi trong tiến trình soạn thảo tài liệu này. Hơn nữa, nó còn cho thấy những hiệu chỉnh mà các dòng và các tu hội đã thực hiện trong những ấn bản lần trước đây của CTĐTLM, dưới ánh sáng của bản chất và tính tự lập hợp pháp của những sứ vụ và đặc sủng của các dòng tu hội. (xc. Mutuae Relationes, số 13c; Vita Consecrata, số 48; Sự hợp tác liên dòng về việc đào tạo, số 3).

Dù những ấn bản trước đây của CTĐTLM có đả động đến những nét đặc thù của các chủng sinh dòng, văn bản đó rõ ràng nhắm thẳng đến mục vụ giáo xứ của giáo sĩ giáo phận như là mục tiêu chính yếu. Vì thế, HNBTTC cho rằng đây là lúc thuận tiện để trình bày mạch lạc hơn nữa những khía cạnh trongCTĐTLM cần được diễn giải cụ thể chiếu theo bản chất và sứ vụ của các dòng trong lãnh vực đào tạo linh mục.

Chúng tôi sẽ bắt đầu với việc mô tả một số đặc tính của chức linh mục trong bối cảnh của dòng tu qua một cái nhìn khái quát về lịch sử dòng tu và sự tiến triển của nó. Từ đó, chúng tôi sẽ rút tỉa một số đặc tính của đời tu trong việc đào tạo linh mục. Các chủ điểm trong bản văn này nói chung cũng theo thứ tự của những chủ điểm trong CTĐTLM (ấn bản thứ năm).

Trước hết, nên vạch ra sự khác biệt đáng kể trong các nhân vật hữu trách tại chủng viện hay Học viện thần học và các nhà đào tạo tại các học viện dòng. CTĐTLM (và những văn bản tương tự, báo cáo 2008 của cuộc thanh tra Tòa thánh) xác nhận một số lĩnh vực trách nhiệm trong tiến trình đào tạo linh mục. Trong trường hợp của hầu hết chủng viện, nếu không muốn nói là tất cả, trách nhiệm thuộc về chính chủng viện. Trong các Học viện thần học do các tu sĩ điều hành dành cho các sinh viên dòng, các chức năng này được phân chia giữa trường học và nhà học. Trong 14 chức năng được liệt kê ở đây, nhằm mục đích minh họa, thì bảy trong số đó liên quan đến tiến trình/cấu trúc tổ chức, và bảy cái còn lại liên quan đến nội dung đào tạo. Để cho rõ hơn, dưới đây các chức vụ được chia làm hai loại; và cho thấy những người chịu trách nhiệm trong mỗi loại. Điều này cho thấy sự khác biệt giữa các dòng tu và các học viện của các dòng tu với các chủng viện giáo phận (xc. Inter-Institute Collaboration for Formation [IICF], n. 4). Những nét đặc thù của đời tu được mô tả qua việc minh họa tương quan hợp tác giữa các học viện thần học và các dòng trong việc chu toàn những đòi hỏi liên quan đến việc chuẩn bị cho các tu sĩ lãnh nhận tác vụ linh mục. Những điều này được liệt ra trong bảng dưới đây:

Phạm vi tiến trình/ cơ cấu Đặc trách
Tiến trình thâu nhận Hội Dòng / Bề trên Thượng Cấp
Khóa hè Hội Dòng / Giám đốc đào tạo
Linh hướng Hội Dòng / Giám đốc đào tạo
Lịch thường nhật Hội Dòng / Giám đốc đào tạo
Điều hành các Học viện thần học                                            Một hay nhiều Bề trên Thượng cấp
Lượng giá các sinh viên Hội Dòng/Bề trên Thượng cấp, Giám đốc đào tạo (lượng giá khả năng của ứng sinh để gia nhập và tiến triển trong đời tu).

Học viện (chỉ lượng giá học lực và khả năng mục vụ của ứng sinh).
Những yêu cầu trước khi học Thần học Hội Dòng, nhưng đôi khi cùng với Học viện, quyết định xem cần bổ túc thêm môn nào

Phạm vi nội dung Trách nhiệm
Đặc sủng Hội Dòng
Giáo dục liên quan đến lời khấn Hội Dòng/Bề trên Thượng cấp, và Giám đốc đào tạo
Hiểu biết về chức linh mục
Hội Dòng và Học viện Thần Học
Những khóa học về tác vụ đặc biệt,
ví dụ như ứng sinh quốc tế và các ứng sinh Hoa Kỳ thuộc các dòng truyền giáo.
Học viện Thần Học
Học bổng Thần Học Học viện Thần Học với sự tham khảo ý kiến của Hội Dòng/ Giám Đốc Đào tạo       
Chuẩn bị cho sứ vụ hợp tác Học viện Thần Học với sự tham khảo ý kiến của Hội Dòng
Thường huấn Hội Dòng/ Bề Trên Thượng cấp và Giám Đốc đào tạo 

Bối cảnh và các nguyên tắc lịch sử của việc đào tạo linh mục trong bối cảnh đời tu


Khi Công đồng Trentô ra lệnh thành lập các chủng viện giáo phận vào hậu bán thể kỷ XVI, thì trước đó hàng thế kỷ các dòng tu đã ổn định việc đào tạo tâm linh và chuẩn bị thừa tác vụ cho các thành viên của họ sẽ chịu chức linh mục. Động lực của sắc lệnh công đồng Trentô về việc thành lập chủng viện là bảo đảm việc đào tạo thần học thỏa đáng và giáo dục thiêng liêng cho linh mục giáo phận, còn những nhu cầu của các dòng tu thì lại khác. Dĩ nhiên, các dòng tu cũng cần được thực hiện cuộc cải cách. Nhưng chủ yếu của mối quan tâm tác vụ và mục vụ của giáo sĩ dòng không phải là các giáo xứ, nhưng là những tác vụ mà vì đó hội dòng của mình đã được thành lập. Thông thường các tác vụ này dành cho những người nghèo khổ, những người sống bên lề Giáo hội – thậm chí bên ngoài Giáo hội – cũng như cho những ai tìm kiếm đời sống tâm linh mãnh liệt hơn.

Trong Giáo hội có nhiều truyền thống về đời tu. Khởi đầu từ thế kỷ V, thánh Âutinh đã thiết lập các kinh sĩ kỷ luật và cung cấp cho một cộng đoàn và bản luật sống cho hàng giáo sĩ. Cấu trúc này mang lại một linh đạo rõ ràng cho những ai hoàn toàn dấn thân vào việc mục vụ. Sau đó, đặc biệt vào đầu thời Trung Cổ, các đan sĩ linh mục là những nhà truyền giáo, thường thiết lập Giáo hội ở những vùng đất mới cũng như lập lên các giáo phận đầu tiên tại vùng đất ngoại giáo.

Các đan viện theo truyền thống Bênêđíctô đảm nhận việc chăm sóc mục vụ đặc biệt theo hình thức phù hợp với truyền thống lâu đời của dòng về sự đón tiếp (hospitality). Trọng tâm đặt ở chỗ không chỉ dành chỗ trọ cho các lữ khách và khách hành hương, nhưng còn là sự đón tiếp theo nghĩa thiêng liêng qua việc chia sẻ đời sống cầu nguyện và các việc đạo đức. Gia đình thánh Bênêđíctô bao gồm các đan sĩ có chức linh mục hay không, ngoài ra còn thêm các nữ đan sĩ và nữ tu hoạt động tông đồ, và cả những hiến sĩ và thân hữu cùng chia sẻ một đặc sủng của dòng, và được các đan sĩ chăm sóc mục vụ và hướng dẫn. Mặc dù mục tiêu chính của việc học hành trong đan viện mang tính cách chiêm niệm hơn là mục vụ, nhưng nó cũng cung cấp cho họ những nền tảng cần thiết cho việc giảng dạy và hướng dẫn thiêng liêng. Các đan viện thường cử hành phụng vụ bí tích cho các gia đình cũng như hàng xóm quanh tu viện, nhưng đó không phải là những công tác giáo xứ cho bằng giáo dục. Cho đến nay, tác vụ của họ cho đến nay vẫn còn mang hình thức của sự đón tiếp thiêng liêng.

Các tu sĩ thuộc hai Dòng hành khất Phansinh và Đa Minh, được thành lập vào đầu thế kỷ XIII, đều lấy việc giảng thuyết là sứ vụ, nhằm đáp ứng và nhắm đến những nhu cầu tôn giáo của giới tư sản của tại một Châu âu mới đô thị hóa. Các tu sĩ Đa Minh chọn lấy sứ vụ rao giảng tông đồ để đáp lại những sai lạc do các phong trào Phúc âm thời ấy, và vì thế lời giảng của họ mang tính cách giáo lý hơn là phụng vụ. Các tu sĩ Phansinh thì chọn sứ vụ rao giảng sự sám hối cho giới bình dân và làm chứng cho Tin Mừng, vì thế lời giảng của họ chủ yếu mang tính khuyến dụ và truyền giáo hơn là phụng vụ.

Thánh Phansinh, người đã được lãnh chức cắt tóc và được chính đức Giáo hoàng Innôcentê III xác nhận ơn gọi đi rao giảng, không hề thụ phong làm linh mục. Cũng giống như những tu sĩ dòng hành khất thời ấy, thánh nhân hiểu rằng (cũng như Giáo hội vốn hiểu) sứ vụ rao giảng của họ phát xuất từ đặc sủng mà họ nhận lãnh để đáp ứng nhu cầu mục vụ cho thế giới đang đổi thay. Các dòng hành khất thời ấy cùng được thấm nhuần cùng một tinh thần ấy, trong đó có dòng Âutinh (hay các Ẩn sĩ), dòng Cátminh, và Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ. Sứ vụ đặc trưng của các tu sĩ dòng hành khất thực vẫn còn là khơi dậy lòng đạo đức, đến với những người đã lạc xa Giáo hội, và dạy dỗ giáo lý Công giáo.

Đối với anh em Đa Minh ngay từ buổi đầu và muộn hơn đối với anh em Phansinh, việc khất thực và học hành được liên kết với việc đào tạo cần thiết để chuẩn bị cho các nhà giảng thuyết và các vị giải tội nổi bật về đạo lý lành mạnh cũng như gương sáng về đời sống khó nghèo. Trong khía cạnh này, những mẫu gương của anh em Đa Minh và Phansinh ảnh hưởng sâu sắc đến sự tiến triển của đời sống tu sĩ hành khất. Những tu viện của những dòng này được cất gần các đại học, nơi đó các tu sĩ được đào tạo bài bản và toàn diện ở cấp cao đẳng. Các dòng này quan niệm việc đào tạo thần học không như là một thứ chuẩn bị cho tác vụ linh mục, nhưng là một sự đào tạo suốt đời cho sứ vụ ngôn sứ của họ. Chức vụ lector conventualis (đặc trách học vụ của tu viện) được đặt để đảm bảo việc học tập liên tục và cuộc đối thoại huynh đệ về thần học giữa các thành viên trong các cộng đoàn.

Vài thế kỷ sau đó, dòng Tên được thành lập năm 1540 gần như cùng thời với công đồng Trentô. Thánh Inhaxiô cùng với 5 người bạn tiên khởi đều tốt nghiệp Đại học Paris, và tất cả đều thâm tín rằng Hội thánh cần đến một tác vụ dựa trên sự hiểu biết mang tính ngôn sứ về Lời của Chúa. Dòng Tên trở thành những người đứng đầu các trường học, cao đẳng, đại học Công giáo, biến chúng trở thành những lò đào tạo những bộ óc được trang bị kỹ càng trong một thế giới sôi động vì những ý tưởng mới của thế giới và nền giáo dục nhân bản. Những tác vụ khác nhau mà Dòng Tên đảm trách gồm: giảng dạy, giáo dục, thuyết giáo, linh hướng, tĩnh tâm, xuất bản, và chăm sóc những người dị giáo và những người vô tín ngưỡng cũng ngang hàng với những giáo dân.

Việc thành lập các hội dòng tông đồ trong những thế kỷ tiếp theo hầu hết là do nhu cầu thực tế, bao gồm những cơ sở được lập vì công cuộc từ thiện, phục vụ người nghèo, để tái rao giảng Tin Mừng cho Châu âu sau những cuộc chiến tranh và cách mạng, cũng như sứ vụ truyền giáo ở hải ngoại. Trong tất cả các trường hợp này, chính đặc sủng và sứ vụ của đấng sáng lập và tiếng gọi tông đồ chăm lo cho những nhu cầu mục vụ đã chi phối lối hiểu về sứ vụ của họ, đó cũng là nguồn mạch hứng khởi của họ.

Đặc biệt là trong thế kỷ XIX, một làn sóng hoạt động truyền giáo theo sau sự bành trướng thuộc địa của Châu âu sang Châu phi và Châu á, dẫn đến việc thành lập nhiều hội dòng để thi hành công việc truyền giáo (ví dụ như Dòng Marists cho vùng nam Thái bình dương và Dòng Pères Blancs ở Châu phi). Các hội dòng thừa sai quốc gia cũng được thành lập như Hội dòng thánh Columban ở Ireland và Hội dòng thừa sai Maryknoll tại Hoa Kỳ.

Sự hiểu biết về sứ vụ bắt nguồn từ đặc sủng của hội dòng được giải thích trong Tông huấn Vita Consecrata (1996) của ĐGH Gioan Phaolô II. Trong đó, Đức Thánh Cha giải thích sự cần thiết của việc trung thành với đặc sủng ban đầu của hội dòng cũng như những di sản tinh thần sau đó (số 36) và mời gọi hội dòng thích ứng đặc sủng với những khởi phát sáng tạo (số 37), đồng thời ngài cổ vũ họ tìm ra những câu trả lời mới mẻ cho những vấn đề mới mẻ của thế giới ngày nay (số 73). Huấn dụ của ĐGH Gioan Phaolô II nhắc lại và khai triển quy tắc nền tảng được thiết lập trong Sắc lệnh về canh tân thích nghi đời dòng tu [Perfectae Caritatis] (số 2), rằng: “Việc canh tân thích nghi đời sống dòng tu một trật, bao gồm sự liên tục trở về nguồn mạch của đời sống Kitô hữu và ơn linh ứng nguyên thủy của hội dòng, cũng như sự thích nghi hội dòng với những hoàn cảnh đổi thay trong thời đại chúng ta.” Tông huấn Vita consecrata mở rộng viễn tượng khi tuyên bố:

Hơn nữa, đời tu lại còn tham gia vào sứ mạng của Đức Kitô bằng một yếu tố nữa là đặc hữu của mình, đó là: đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, hướng về sứ vụ. Như vậy, các tu sĩ càng dấn thân vào việc tông đồ và càng dâng hiến bản thân cho Chúa Giêsu, thì lại càng sống đậm tình huynh đệ cộng đoàn, và càng đi sâu vào sứ vụ đặc biệt của hội dòng (số. 72).

Văn kiện năm 1994 của Bộ các Hội Dòng Thánh hiến và các Tu Đoàn Tông Đồ, Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn (Fraternal Life in Community) diễn tả cùng một ý tưởng đó như thế này: 

Cộng đoàn tu trì là một cơ thể sống động của tình hiệp thông huynh đệ, được mời gọi để sống đoàn sủng nguyên thuỷ. Cộng đoàn tu trì là một thành phần của mối hiệp thông hữu cơ của toàn thể Giáo hội, không ngừng được Chúa Thánh Thần làm cho nên phong phú với nhiều tác vụ và đoàn sủng (số 2c). 

Hơn nữa Vita Consecrata giải thích rằng các linh mục dòng diễn tả mầu nhiệm Đức Kitô theo một cách thế riêng biệt “do linh đạo đặc thù và chiều kích tông đồ của đoàn sủng hội dòng.” (số 30)

Vì thế, việc thi hành các tác vụ tư tế của các linh mục dòng nằm trong việc phục vụ đoàn sủng của hội dòng và trong cách diễn tả sứ vụ tông đồ của hội dòng. Dù các linh mục dòng ở dưới quyền tài phán của giám mục giáo phận trong nhiều lãnh vực, nhưng họ lãnh chức linh mục không phải để phụ trách giáo xứ per se (theo bản tính), cũng không phải để phụ trách giáo xứ thuộc một giáo phận cụ thể nào. Đời sống của họ cho phép họ thi hành tác vụ ở những phạm vi rộng lớn hơn của Giáo hội. Họ thi hành tác vụ khi phục vụ sứ vụ của hội dòng mình theo tinh thần của Đấng sáng lập và đoàn sủng mà họ cùng chia sẻ với các thành viên.

Như Vita Consecrata khẳng định, các hội dòng là hồng ân thiêng liêng được ban cho các đấng sáng lập; các ngài chuyển trao “một cảm nghiệm Thần Khí” cho các đồ đệ của mình để họ sống và làm cho triển nở. Do đó, họ được hưởng một quyền tự trị chính đáng trong việc phân định việc thi hành sứ vụ của mình, và các đấng bản quyền có bổn phận bảo toàn và che chở quyền tự trị này (số 48). Khẳng định này phản ánh những gì đã được viết trong Huấn thị Những liên hệ hỗ tương (Mutuae Relationes) (số 11):

‘Đặc tính riêng biệt’ (của họ) cũng bao gồm một đường lối đặc thù trong việc nên thánh và tông đồ, tạo nên một truyền thống nhất định, đến độ người ta có thể dễ nhận ra những yếu tố khách quan của nó. Trong thời buổi văn hóa phát triển và Giáo hội canh tân hiện nay, mỗi hội dòng cần phải bảo toàn căn tính cách chắc chắn để tránh những nguy cơ của tình trạng mập mờ khiến cho chính các tu sĩ ấy tham gia vào đời sống Giáo hội một cách mơ hồ và lưỡng nghĩa, khi không quan tâm đến hoạt động tông đồ cố cựu cũng như đặc tính của mình. (xc. Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, số 35 III; và Sự hợp tác liên dòng trong việc đào tạo, số 7.1.)

Xét về lịch sử, có nhiều yếu tố chung được phát triển liên quan đến việc đào tạo những người gia nhập các hội dòng mà sau này sẽ thụ phong linh mục. Trong số nhiều điều khác, ta có thể kể đến chương trình đào tạo tâm linh sâu xa trong tập viện và về sau sẽ trở thành nền tảng cho sự tiến triển tâm linh không ngừng trong suốt đời tu của họ. Họ cũng theo đuổi một chương trình đại học, thường liên kết với các trường đại học và một môi trường học thuật. Họ sống trong mối tương quan mật thiết với những thành viên khác của cộng đoàn, gồm cả những anh em tu huynh, và nhiều khi có tương quan với các nữ tu thuộc cùng một gia đình hội dòng, cũng như với những phần tử dòng ba, những hiến sĩ và cảm tình viên. Họ biết rằng tác vụ của họ không nhằm phục vụ trong cơ cấu giáo xứ, và do đó việc đào tạo tâm linh và trí thức của họ nhắm đến những tác vụ đặc biệt theo ơn gọi.
Những hệ luận của các đặc điểm này đối với việc đào tạo linh mục hiện nay

Vì vậy, do bản chất của đời tu, cần phải có những điều chỉnh để tôn trọng sự năng động của bốn trụ cột trong việc đào tạo linh mục - nhân bản, tâm linh, tri thức và mục vụ - khi đem áp dụng cho các ứng viên linh mục trong các hội dòng. Việc đào tạo bốn trụ cột này được thực hiện cả trong cộng đoàn tu sĩ lẫn trong học viện thần học. Tòa Thánh và các giám mục, khi khẳng định tính duy nhất của chức linh mục, muốn rằng một vài điều cần phải được thực hiện trong tiến trình chuẩn bị cho các linh mục, dù là linh mục giáo phận hay linh mục dòng, và đây là mục tiêu của CTĐTLM. Tuy nhiên, đối với các tu sĩ, sự chuẩn bị này không chỉ được thực hiện ở một nơi và bởi một nhóm, như là trong chủng viện của giáo phận, nhưng được thực hiện ở hai đơn vị liên quan là cộng đoàn dòng tu và học viện thần học dưới sự hướng dẫn của các bề trên (xc. Sự hợp tác liên dòng trong việc đào tạo, số 1-4).

Ví dụ, nhiều khía cạnh đào tạo về nhân bản và tâm linh dành cho những người mới gia nhập được thực hiện ngay từ khi họ gia nhập qua những hoạt động tương tác của các tu sĩ trong đời sống cộng đoàn và trong những cảm nghiệm phụng vụ của học viện. Nhiều truyền thống dòng tu cách này hay cách khác nói về đời sống cộng đoàn như một trường học đức ái. Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn (số 2, II) nêu bật rằng “vì đời sống cộng đoàn là một Trường Dạy Yêu Thương (Schola Amoris) giúp người ta lớn lên trong tình yêu Thiên Chúa và yêu thương anh chị em mình, cho nên đó cũng chính là nơi giúp con người tăng trưởng”. Việc phục vụ lẫn nhau và cộng tác cách thiết thực của các linh mục dòng và các anh em với nhau trong đời sống cầu nguyện chung cũng như sự phục vụ góp phần vào rèn luyện sâu xa lòng quảng đại và linh đạo của các thành viên.

Hơn nữa, việc đào tạo trí thức của tu sĩ được xác định cách quan trọng bởi những mục tiêu dành cho tác vụ và những sáng kiến mục vụ thích hợp với tinh thần và đặc sủng của dòng. Cũng thế, việc đào tạo mục vụ thì không chỉ khái quát, nhưng bén rễ trong lịch sử và truyền thống của hội dòng và trong sứ vụ như đã được quan niệm vào hồi thành lập. Nói cách khác, trong những chi tiết được trình bày dưới đây, một vài khía cạnh của việc đào tạo linh mục thuộc trách nhiệm của chủng viện giáo phận, thì đối với các học viện thần học do dòng tu điều khiển, thường được đảm bảo bởi đời sống cộng đoàn của hội dòng. Cũng có những khía cạnh đào tạo khác diễn ra bên trong học viện thần học cần được điểu chỉnh để tôn trọng những đóng góp tâm linh và mục vụ của hội dòng đối với đời sống mục vụ của Giáo hội. Sự đóng góp đặc thù thì phù hợp với ân sủng Thánh Thần được ban cho đấng sáng lập và được phát triển nhờ sự tăng trưởng và tiến triển hữu cơ của hội dòng.


Những điều chỉnh cụ thể cho các sinh viên Dòng tu


Những điều chỉnh sau đây phù hợp với dự liệu của CTĐTLM ở số 31, mô tả “tiến trình khác biệt của sự đào tạo tâm linh dành cho những ai trước hết được mời gọi phục vụ Giáo hội qua ơn gọi tu trì và cho những ai chia sẻ vào việc bảo vệ lòng trung tín với đặc sủng của đấng sáng lập”.

1. Tiến trình thu nhận


Nói chung, ơn gọi tu dòng được khởi phát qua sự quen biết và thân thiết với những cộng đoàn và một tương quan khắng khít với một cộng đoàn cụ thể, thường kéo dài trong nhiều năm. Tiến trình nhận định để thâu nhận vào đời sống tu trì bắt đầu từ lúc chính thức kết nạp với hội dòng (xc. CTĐTLM, số 35). Nhận định ban đầu này trước hết không phải là để xem đương sự có thích hợp với tác vụ linh mục hay không, nhưng là có thích hợp với đoản sủng và tinh thần của dòng và với cộng đoàn hay không.

Thường thì, một ứng viên cho đời sống tu trì phải trải qua giai đoạn tìm hiểu và thỉnh tu trước khi được nhận chính thức vào trong tập viện của dòng để trở thành một tu sĩ. Quá trình thâu nhận nhằm đảm bảo sự tương hợp giữa những khả năng của ứng viên với đoàn sủng và sứ vụ của hội dòng. Trách nhiệm cuối cùng để nhận ứng sinh vào tập viện thuộc về bề trên thượng cấp, hành xử hợp với những quy tắc được thiết lập trong luật riêng của hội dòng với sự tham khảo ý kiến của giám đốc đặc trách ơn gọi cũng như những người khác. Sự thâu nhận này bao hàm một cuộc kiểm tra sức khỏe tâm lý và thể lý của ứng sinh, đời sống thiêng liêng và bí tích, khả năng sống cộng đoàn, khả năng thi hành sứ vụ cách hiệu quả trong tương lai, chứng cứ cho thấy có ơn gọi linh mục nếu ứng sinh ước muốn làm giáo sĩ. Sự thẩm định ở giai đoạn này thường bao gồm cả việc kiểm tra tâm lý và lượng định sự thích hợp, cùng với những lãnh hội đạt được trong đời sống cộng đoàn, để đảm bảo rằng ứng sinh đạt đủ những đòi hỏi của CTĐTLM và sẵn sàng để học thần học và mục vụ.

Kết thúc giai đoạn tập viện, tu sĩ mới khấn dòng tiếp tục một tiến trình tương tự về đào tạo nhân bản và tâm linh, đó là phần thiết yếu trong đời sống hội dòng của anh, và anh được chỉ định chuẩn bị những gì cần thiết cho việc học thần học. Sau đó, ứng sinh được hội dòng giới thiệu với học viện thần học được xem là thích hợp cho đào tạo chuẩn bị lãnh chức thánh (CTĐTLM 12,33-67, 285-86).

2. Dự bị thần học được chuẩn bị bằng nhiều cách


Nhiều điều được được xem là mục tiêu của các chương trình dự bị thần học được thực hiện trong đời sống tu trì qua chương trình tập viện, qua những thuyết trình và hội thảo về linh đạo, và qua sự học hỏi cá nhân dưới sự hướng dẫn của đặc trách đào tạo hay giám đốc học vụ. Hơn nữa, các học viện thần học của các dòng tu đã được thiết kế và hiện thực thi các chương trình để bổ túc những chỗ khuyết trong kiến thức của các ứng sinh, cụ thể là những gì liên quan đến triết học và truyền thống tri thức Công giáo. Trong một vài trường hợp, tu sĩ trong khi sống trong cộng đoàn, vẫn đi theo học đại học để hoàn tất chương trình cử nhân và chuẩn bị lên các cấp đại học cao hơn. Hội dòng có trách nhiệm đảm bảo rằng một ứng sinh học thần học phải có đủ khả năng để có thể kham nổi chương trình của học viện (CTĐTLM 35, 46, 50, 60, 161-62, 185-90, 255).

3. Những sự khác biệt trong tác vụ tương lai đối với nhiều sinh viên quốc tế


Nhiều sinh viên tu sĩ ngoại quốc đang học ở các học viện thần học của chúng ta. Phần lớn trong số đó sẽ trở lại quê hương mình. Trong trường hợp này, một số phần trong chương trình đào đạo chủng sinh Hoa Kỳ sẽ không mang ý nghĩa cụ thể đối với việc đào tạo linh mục của họ. Sự nhận biết khu vực thi hành tác vụ của các linh mục tu sĩ trong tương lai là điều hết sức quan trọng, như Huấn thị Những liên hệ hỗ tương (số. 30) làm rõ khi nói rằng: “kể từ thời kỳ tập viện trở đi, tu sĩ…. cần được hướng dẫn để ý thức và lưu tâm đến Giáo hội địa phương…”

Vì lý do này, chương trình giảng dạy của học viện thần học phải bao gồm cả những thực tại mục vụ này. Tuy nhiên, các sinh viên tu sĩ ngoại quốc dự định sẽ ở lại Hoa Kỳ cần phải được đào tạo sao cho hiểu được bối cảnh tôn giáo và văn hóa của tác vụ và đời sống linh mục tại Hoa Kỳ (CTĐTLM 49, 140, 160, 162, 172, 182, 228).

4. Hiểu biết đoàn sủng của các hội dòng


Như Vita Consecrata (số 93) đã lưu ý, đời sống thánh hiến là nguồn cội của đời sống tâm linh. Đối với tu sĩ, đời sống tâm linh (“đời sống theo Thần Khí”) là một nẻo đường kiên trì hình thành nên một linh đạo đặc thù, nghĩa là một đường hướng cụ thể sống tương quan với Thiên Chúa. Hiệu năng của công việc tông đồ bắt nguồn từ lòng trung thành với truyền thống tâm linh này. Truyền thống này không chỉ mang lại sinh lực cho đời sống tâm linh của các thành viên, nhưng còn là một đặc sủng cần được chia sẻ với toàn thể Giáo hội, “một trường dạy tâm linh đúng nghĩa theo Tin Mừng ... từ đó có thể truyền cảm hứng cho những người của thời đại chúng ta, đang khát khao những giá trị tuyệt đối” (ibid; xc. Mutuae Relationes, ch. III).

Vì thế các linh mục dòng biết rằng họ dấn thân vào tác vụ của Giáo hội một cách đặc thù, bằng cách thấm nhuần việc đào tạo giúp cho diễn đạt đoàn sủng của họ và sẵn sàng đóng góp truyền thống thừa tác vụ của hội dòng họ cho Giáo hội. Sự hiểu biết này làm sáng tỏ điều CTĐTLM đã nói (số 28): “Bối cảnh trước hết của chức linh mục dòng thông thường đến từ chính bản chất của đời tu” và “tu sĩ thực thi tác vụ [linh mục] ngay trong khung cảnh đoàn sủng của họ”. (CTĐTLM 29-31).

5. Kinh nghiệm và bối cảnh của chức linh mục không giống nhau đối với các linh mục giáo phận và các linh mục dòng


Tuy vẫn khẳng định sự duy nhất của chức linh mục, nhưng các bối cảnh thi hành tác vụ thì khác biệt giữa các linh mục dòng và các linh mục giáo phận. Ví dụ, các linh mục dòng thi hành những tác vụ có khi trùng hợp những có khi vượt quá biên cương của công tác mục vụ của các giám mục và linh mục giáo phận. Qua nhiều thế kỷ, các giáo sĩ giáo phận phục vụ các tín hữu chủ yếu như những vị lãnh đạo cố định của cộng đoàn giáo xứ. Các tu sĩ phục vụ các tín hữu thể theo đòi hỏi của đoàn sủng của họ được diễn tả qua nhiều hình thức đa dạng: qua sứ vụ giảng dạy và huấn giáo, qua những cuộc tĩnh tâm và hướng dẫn thiêng liêng, qua các trường học và đại học, qua những việc truyền giáo ở ngoại quốc, qua việc tuyên úy, qua việc đối thoại đại kết và liên tôn, qua việc nghiên cứu và xuất bản, và trong nhiều hình thức mục vụ phong phú trong lãnh vực xã hội, giáo dục, hướng dẫn thiêng liêng, và truyền giáo. Ngoài ra các linh mục dòng dòng còn hỗ trợ các giám mục giáo phận trong việc quản trị giáo xứ, và hiển nhiên, một vài hội dòng đã cung cấp cho các giám mục rất nhiều cha sở.

Chúng ta khẳng định rằng tất cả tư tế thừa tác chia sẻ và diễn tả một chức tư tế duy nhất của Đức Kitô, nhưng đồng thời chức linh mục lại được diễn tả bằng hai cách khác biệt nhau. Trong trường hợp linh mục giáo phận, căn tính và công việc mục vụ của họ vừa ổn định cách thông thường trong một khu vực nhất định và đáp ứng nhu cầu cử hành bí tích của giáo phận. Ngược lại, căn tính của linh mục dòng khởi đi từ sứ vụ và đoàn sủng của dòng mà đôi khi cũng ăn khớp với những hoàn cảnh đặc biệt của một giáo phận đang cần đến mục vụ giáo xứ. Tuy nhiên, điều mà linh mục dòng chủ yếu đóng góp cho đời sống mục vụ của giáo phận là một sự linh động cho phép họ mang những đặc sủng thiêng liêng và các tác vụ đặc biệt liên quan đến hội dòng của mình. Vì vậy, Vita Consecrata (số 81) giải thích rằng: “Để đối diện hữu hiệu với những thách đố lớn lao mà lịch sử hiện đại đặt ra cho công cuộc loan báo Tin Mừng cách mới mẻ, thì điều cần thiết nhất phải là một đời sống thánh hiến không ngừng được chất vấn bởi lời mặc khải và các dấu chỉ thời đại”, điều này được lặp lại trong Huấn thị “Hợp tác liên dòng trong việc đào tạo” (Inter-Institute Collaboration for Formation) số 7.1, đòi hỏi sự diễn tả gia sản của mỗi hội dòng với “sự trung thành mang tính sáng tạo”.

Khi xem xét các bối cảnh khác biệt này, việc đào tạo các ứng sinh linh mục dòng sẽ khác nhau tùy theo sứ vụ và đoàn sủng của mỗi hội dòng. Do đó phải chuẩn bị cho họ biết linh hoạt và nhạy cảm với những nhu cầu và hoàn cảnh luôn thay đổi của thời đại chúng ta. Các tác vụ đặc thù của tu sĩ, như được nhắc đến ở trên, được đặt nền cách riêng trong ơn gọi tiên phong là rao giảng Lời Chúa (Presbyterorum Ordinis 4), giải thích sự thông dự trọn vẹn của tín hữu trong đời sống tư tế mà họ lãnh nhận trong Phép rửa (Sacrosanctum Concilium 14, 26; Prebyterorum Ordinis 5), và dẫn dắt những người lạc xa Giáo hội vào sự chia sẻ cộng đoàn và sự thánh thiện cách sinh động. Chính gương mẫu của họ cũng được bày tỏ trong việc làm chứng cho một đời sống chung, phục vụ người nghèo và những kẻ bơ vơ, và việc mang sứ vụ của Giáo hội đến những vùng đất xa xăm.

Vì thế, việc đào tạo dành cho các linh mục dòng cần phải quan tâm đặc biệt đến sự huấn luyện lý thuyết và thực hành về việc loan báo và giảng truyền Lời Chúa dưới mọi hình thức – giảng lễ, truyền giáo, tĩnh tâm, giáo dục đức tin cho người trưởng thành, nhóm học hỏi Kinh thánh. Mối quan tâm đặc biệt này nối kết với chính trọng tâm của đoàn sủng của tu sĩ cũng như đặc tính riêng biệt của thừa tác vụ của họ. Sự lưu tâm đến việc đào tạo linh mục dòng trong lãnh vực này tương ứng với lời kêu gọi khẩn cấp của ĐGH Phaolô VI trong Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi): “Cái làm nên căn tính tác vụ tư tế của chúng ta, cái làm thành mối hiệp nhất sâu xa cho cả trăm ngàn việc bắt chúng ta chú ý tới,… đó là mục tiêu này, luôn hiện diện trong tất cả mọi hành động của chúng ta: loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa”. (số 68)

Lời mời gọi của Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng cổ vũ cho sự loan báo rõ ràng Lời Chúa cho những ai đang sống trong một thế giới không ngừng đổi thay. Văn kiện Fulfilled in Your Hearing (Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, 1982) mở rộng lời yêu cầu linh mục hãy trở thành những nhà giảng thuyết hiệu quả có thể làm say đắm tâm hồn các tín hữu. Văn kiện Our Hearts Were Burning Within Us (Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, 1999) đòi hỏi linh mục phải giảng và dạy giáo lý sao cho có thể giúp tín hữu trở thành những tác nhân của việc loan báo Tin Mừng, có tác động lên thế giới xung quanh. Tất cả những điều này nhấn mạnh lời tuyên bố của Công đồng Vatican II trong sắc lệnh Ad Gentes (số 35): “Vì toàn thể Giáo hội mang tính truyền giáo, và vì công việc rao giảng Tin Mừng là nhiệm vụ căn bản của Dân Chúa, nên Thánh Công Ðồng mời gọi mọi người canh tân tự thâm tâm mình, để khi đã ý thức trách nhiệm riêng trong việc truyền bá Tin Mừng, thì họ tham gia vài công tác truyền giáo…”

Các linh mục dòng cần ghi nhớ những lời huấn dụ này của Đức giáo hoàng và các giám mục với sự nhạy cảm đặc biệt, bởi vì chúng cũng có giá trị tương đương đối với với chính lý do hiện hữu của hội dòng và đời sống tông đồ của họ (CTĐTLM 13-14, 19-31; xc. Huấn thị Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, số 35, III).

6. Đào tạo nhân bản qua các lời khấn


Các cộng đoàn đào tạo linh mục của các dòng đều biết rõ những chỉ thị liên quan đến đào tạo nhân bản và tâm linh như đã được trình bày cụ thể trong CTĐTLM. Liên quan đến việc đào tạo nhân bản, các bề trên của các cộng đoàn ấy nhớ rằng: “Nền tảng và trọng tâm của việc đào tạo nhân bản là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể. Trong nhân tính được phát triển trọn vẹn của Người, Người thực sự tự do và hoàn toàn tự do trao hiến chính mình để cứu chuộc nhân loại.” (CTĐTLM 74). Vì thế, như được nói rõ trong CTĐTLM 76, cộng đoàn đào tạo phải cố gắng chuẩn bị cho ứng sinh linh mục trở thành những con người tự do, có phẩm cách luân lý vững vàng với một lương tâm trưởng thành và cao thượng, cởi mở để hoán cải. Các sinh viên tu sĩ cần tăng trưởng trong đức khôn ngoan và biện biệt cũng như trở thành những con người biết tương giao. Họ phải trở thành những người giỏi giao tiếp để có thể tương quan tốt với những người thuộc nhiều hoàn cảnh khác nhau và có thể giữ vai trò một người của công chúng. Họ cần phát triển sự trưởng thành tình cảm, biết tôn trọng, chăm sóc cũng như bảo về chính thân thể của mình. Các ứng sinh phải thực hành tuân giữ các lời khấn, sống cuộc sống khó nghèo, khiết tịnh và tuân phục.

Vita Consecrata nhấn mạnh hoa trái sự tận hiến của đời tu theo các lời khuyên Phúc Âm, nghĩa là, qua các lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và tuân phục. “Vị linh mục nào tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm thì được trợ giúp đặc biệt để hoạ lại trọn vẹn mầu nhiệm Đức Kitô trong cuộc sống, cũng như nhờ linh đạo riêng và nhờ chiều kích tông đồ do đoàn sủng của tu hội” (số 30). Vì thế, trong mọi khía cạnh của việc đào tạo, một sự trưởng thành trong việc hiểu biết các lời khấn dòng đòi hỏi rằng tất cả việc đào tạo phải phối hợp và được thẩm thấu bởi sự phong phú thiêng liêng của sự dâng hiến cuộc sống được diễn tả qua các lời khấn.

Ngày nay, Giáo hội quan tâm làm sao thế nào những ứng sinh linh mục đạt được trưởng thành giới tính và quảng đại chấp nhận sự khiết tịnh độc thân. Thêm vào những quy định trong CTĐTLM về khiết tịnh độc thân, đời sống tu trì còn diễn tả một sự dấn thân rộng hơn cho đời sống Tin Mừng. Ở đây, điều quan trọng là nhận ra rằng đức khiết tịnh, xét như một sự diễn tả sự tiết chế và sự quảng đại, được chấp nhận một bối cảnh khác với hàng giáo sĩ giáo phận. Đối với tu sĩ, sự độc thân của đời khiết tịnh thánh hiến có liên hệ với các lời khấn khác và được diễn tả trong một truyền thống của sự bác ái huynh đệ trong cộng đoàn.

Việc khấn khiết tịnh được sống trong một cộng đoàn là một sự giáo dục trong tình yêu khả sinh làm tăng triển tối đa sự đào tạo nhân bản như Tông Huấn về việc đào tạo linh mục (Pastores Dabo Vobis) đề cập đến: “nhân đức khiết tịnh dẫn đến việc cảm nghiệm và biểu lộ… một tình yêu chân thành, nhân bản, huynh đệ, cá vị và có khả năng hy sinh theo gương Đức Kitô đối với mọi người và đối với từng người” (số 50). Vì thế, về cơ bản, khấn khiết tịnh được bắt nguồn trong sự tôn trọng và khả năng triển nở tương hợp với sự thừa nhận rằng Giáo hội mà người ta phục vụ là biểu hiện sống động về Thân Mình của Đức Kitô, được gặp thấy trước hết nơi tình huynh đệ của tu sĩ và được phục vụ một cách rộng rãi trong tác vụ dành cho một Giáo hội rộng hơn.

Vâng phục là điều căn bản đối với đời sống tu trì, diễn tả sự vâng phục của Đức Kitô đối với Chúa Cha và được hình thành cách cụ thể nơi mỗi thành viên của hội dòng cam kết trung thành với tiếng Chúa gọi để đi theo Đức Kitô hợp với lề luật và đoàn sủng của hội dòng của họ. Vita Consecrata diễn tả điều này rất hay qua câu nói “Nhờ đức ái truyền thêm sinh khí, đức vâng phục liên kết những thành viên của một tu hội vào cùng một chứng tá và cùng một sứ mạng, tuy vẫn tôn trọng những hồng ân khác biệt và cá tính mỗi người. Trong đời sống huynh đệ được Thánh Thần linh hoạt, mỗi người trân trọng đối thoại với các người khác để tìm ra ý Chúa Cha” (số 92). Sự vâng phục này được diễn tả trong sự trung thành với huấn quyền của Giáo hội, với Đức giáo hoàng, với bề trên thượng cấp của riêng từng hội dòng, và trong tương giao với quyền bính chính đáng của các đức giám mục địa phương nơi hội dòng cư ngụ.

Khó nghèo cũng có liên hệ mật thiết với vâng phục, vì vâng phục thi hành sứ vụ cần phải hủy mình để giúp tu sĩ hòa đồng sâu xa với sự tự hủy của Đức Kitô. Như Vita Consecrata nói: “đời thánh hiến san sẻ sự nghèo khó cùng cực mà Chúa đã chấp nhận và chu toàn một vai trò đặc thù trong mầu nhiệm cứu độ của Cuộc Nhập Thể và Cái Chết cứu chuộc của Người.” Khó nghèo theo Tin Mừng, được diễn tả và sống bằng nhiều cách khác nhau, có một giá trị tự thân vì nó “làm chứng cho Thiên Chúa, kho tàng đích thực của trái tim con người,” thách thức chủ nghĩa duy vật của thời đại chúng ta (số 90). Hơn nữa, lập trường này hàm ý một sự từ bỏ chính mình và hạn chế dựa theo những quy tắc của sự đơn giản và hiếu khách, là các giá trị được duy trì qua việc thực hành đời sống cộng đoàn. Sự khó nghèo này cũng được diễn tả trong sự ưu ái đặc biệt dành cho những người nghèo và trong sự quan tâm đến những người bị xã hội bỏ rơi. Vì thế, chương trình học và việc đào tạo mục vụ trong các học viện thần học của dòng tất nhiên phải nhấn mạnh học thuyết xã hội của Giáo hội, bao gồm sự phân tích một vài cấu trúc nhất định của một xã hội tư bản có thể dẫn đến bất công và bất bình đẳng.

Những suy tư về các lời khấn cho thấy đời sống tu trì huấn luyện những thói quen khiết tịnh, đơn sơ, phong nhiêu, trách nhiệm và vâng phục. Nó cũng giúp làm sáng tỏ điều này, các bề trên dòng tu và đặc trách đào tạo cần liên kết những việc thực hành các lời khấn trong các cộng đoàn của họ với việc đào tạo thần học mà sinh viên của họ đang đón nhận từ chương trình của trường (CTĐTLM 100-102,110). Như huấn thị Hợp tác liên dòng trong việc đào tạo (số 4) đã ghi: “Cộng đoàn đào tạo là điểm quy chiếu ưu tiên mà không trung tâm nào có thể thay thế được. Nó là nơi mà căn tính cá nhân và sự đáp trả ơn gọi được lớn lên và phát triển, theo tinh thần của mỗi đấng sáng lập…”


7. Việc quản trị các học viện thần học của hội dòng, đặc biệt là các liên học viện


Các học viện thần học dành cho tu sĩ ở Hoa Kỳ có nhiều hình thức tổ chức và quản trị, một số là Studium của một hội dòng, số khác là học viện thành hình do sự hợp tác giữa nhiều hội dòng. Tuy nhiên, tại mỗi học viện thần học, việc đào tạo các tu sĩ ứng sinh linh mục thuộc trách nhiệm của từng hội dòng cụ thể tùy theo ratio studiorum (chương trình học vấn) và ratio formationis (chương trình đào tạo) mỗi hội dòng riêng biệt. (Nguyên tắc tương tự cũng được áp dụng cho những tu sĩ theo học tại chủng viện giáo phận về mặt trí thức và mục vụ; vền đào tạo thì họ theo chương trình riêng, đặc biệt nếu các tu sĩ còn trong giai đoạn đào tạo sơ khởi).

Trách nhiệm đối với thể thức giáo luật của việc quản trị Học viện thuộc về những người nắm quyền tài phán của Giáo hội. Đối với học viện thần học của dòng, hoặc là bề trên thượng cấp chịu trách nhiệm về studium của trường hoặc một bề trên khác hoặc tập đoàn các bề trên thượng cấp đại diện cho các đơn vị gửi sinh viên đến học viện.

Ban điều hành của các học viện thần học này được tổ chức và nắm giữ quyền bính dựa theo các cấu trúc khác nhau tương tự như việc quản trị các chủng viện giáo phận và chủng viện miền. (CTĐTLM 289, 291, 293304, 306-343, 347, p. viii).

8. Chuẩn bị cho việc hợp tác trong tác vụ


Như các Giám Mục Hoa Kỳ đã khẳng định trong bản văn của họ, Cùng Làm Việc Trong Vườn Nho Của Chúa (2005), lời Chúa Giêsu mời gọi đến làm môn đệ “thì giống nhau cho tất cả những kẻ theo Đức Kitô,” đó là, một lời mời gọi tiến tới sự viên mãn của đời sống Kitô hữu và lối sống nhân bản hơn trong xã hội (tr.7). Tiếp đó văn bản của các giám mục lặp lại lời khẳng định của Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo, số 910.

Các giáo dân cũng có thể cảm thấy được gọi, hay thực sự được gọi, để cộng tác với các mục tử phục vụ cho sự sống và tăng trưởng của cộng đoàn Hội Thánh, bằng cách thực hành các tác vụ đa dạng, tùy theo ân huệ và các đặc sủng mà Chúa đã ban cho họ (Evangelii Nuntiandi số 73).

Nắm bắt điều này, các học viện thần học của dòng ở Hoa Kỳ đã được ủy thác việc đào tạo thần học và mục vụ cho giáo dân vì nhiều lý do quan trọng. Nhiều hội dòng giáo sĩ có thành viên là giáo dân, nghĩa là các tu huynh, là những người cũng cần được đào tạo thần học để chuẩn bị cho tác vụ tương lai của họ ngay trong các cộng đoàn tu sĩ. Cũng vậy, nhiều gia đình dòng tu có những thành viên tương ứng trong cộng đoàn nữ tu cùng chung một luật sống hoặc một kiểu dòng ba hay được kết nạp. Thường những thành viên này liên hệ bằng nhiều cách với các học viện thần học của chúng ta. Văn kiện Liên hệ hỗ tương (số 49) thừa nhận rằng các nữ tu càng ngày càng nhận thấy rõ hơn trong vai trò thay mặt Giáo hội trong sứ vụ, nên họ cần được đào tạo để đạt tối đa sự hiện diện tông đồ của họ cũng như khả năng mục vụ chuyên môn của họ. “Nếu không thì Dân Chúa sẽ thiếu đi sự hỗ trợ đăc biệt mà duy chỉ người nữ mới có thể mang lại, nhờ ân huệ mà họ đã lãnh nhận như là phụ nữ từ Thiên Chúa.” (số 50). Huấn Thị Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, số 40 cũng nói rằng: “sự gặp gỡ và hợp tác giữa các nam tu sĩ, nữ tu và giáo dân được xem như mẫu gương của sự hiệp thông trong Giáo hội, và đồng thời, siết chặt năng lực tông đồ để rao giảng Tin Mừng cho thế giới.”

Hơn nữa, như Tông huấn Pastores Dabo Vobis nhấn mạnh, điều hết sức quan trọng là linh mục có được khả năng tiếp xúc với những người khác, trở thành một “con người của hiệp thông,” để “có thể cởi mở chính mình trong những mối quan hệ chân thành và huynh đệ,… khích lệ điều đó nơi những người khác…” (số 43). Ở Hoa Kỳ, có ít nhất 60% giáo xứ có thừa tác viên giáo dân được trả lương, mang lại những phục vụ mục vụ trọng yếu cho đời sống cũng như sự thịnh vượng của giáo xứ. Do đó, tập quán hợp tác chân thành, công bằng và tôn trọng phải được trau dồi nơi các linh mục tương lai như một phần trong chương trình đào tạo và giáo dục thần học của họ.

Các chương trình học vấn thâu nhận cả những thừa tác viên giáo dân trong các khóa học đã mang lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho các chủng sinh lẫn sinh viên giáo dân và bằng nhiều cách họ có thể bổ túc cho nhau. Hơn nữa, việc các giáo dân đăng ký theo học trong một khung cảnh hợp tác như thế đã tạo nên một sự đóng góp đáng kể cho tính hữu hiệu của tác vụ mục vụ trong Giáo hội toàn quốc. Các cộng đoàn tu trì đã có kinh nghiệm hàng thế kỷ về việc cung cấp sự đào tạo thiêng liêng hữu hiệu, và nay qua các học viện thần học, họ đã bắt đầu cung cấp việc huấn luyện tâm linh cho những thừa tác viên giáo dân. Sự đóng góp đặc biệt này là vô giá đối với đời sống mục vụ của Giáo hội.

Tuy nhiên, chương trình đào tạo nhân bản và thiêng liêng dành cho sinh viên tu sĩ và các thừa tác viên giáo dân tương lai phải được phân biệt trong các học viện thần học của chúng ta, vì những lý do mà Pastores Dabo Vobis, Huấn thị Hợp tác liên dòng về việc đào tạo, và CTĐTLM đã nói tới. Trách nhiệm chuẩn bị chu đáo các nam, nữ giáo dân cho những nhu cầu Giáo hội rõ ràng không nên coi như cạnh tranh hoặc làm tổn hại cho trách nhiệm chuẩn bị các ứng sinh lãnh chức thánh dựa theo những quy tắc của Giáo hội. Trong khi nhiều học viện thần học do tu sĩ đứng đầu đã đưa ra những chương trình đào tạo cho các thừa tác viên giáo dân, thì họ cũng phải đảm bảo chất lượng chuẩn bị cho các ứng sinh tu sĩ sẽ lãnh chức linh mục, và họ duy trì một môi trường nâng đỡ và khích lệ các ơn gọi linh mục.

Như CTĐTLM cho thấy, “sự cộng tác của linh mục với các giám mục, với các linh mục khác, phó tế, tu sĩ và giáo dân đã trở thành một nét quan trọng của đời sống Giáo hội ở Hoa Kỳ” (số 11). Vì thế, sự phát triển một nền thần học về Giáo hội dấn thân trên đường hợp tác sứ vụ (ví dụ, việc sử dụng các thừa tác viên giáo dân) mang lại một nguyên lý rõ ràng cho sự thâu nhận vào các học viện thần học dành cho những ứng viên thích hợp cho việc đào tạo tác vụ giáo dân đồng thời với nỗ lực dành cho việc đào tạo linh mục.

Sự dấn thân của các học viện thần học của dòng tu vào việc đào tạo cho cả sinh viên tu sĩ lần sinh viên giáo dân cho sứ vụ hợp tác nay trở thành là một thực hành phổ thông trong Giáo hội Hoa Kỳ, một phân khoa đa dạng bao gồm linh mục, tu sĩ vả cả giáo dân. Ngoài ra, bối cảnh đó giải thích tại sao linh mục tương lai phải hiểu rằng “chức tư tế thừa tác của họ nhằm phục vụ chức tư tế phổ quát” và vì thế họ có mối liên hệ với giáo dân như là “một cách thế mà Đức Kitô luôn dùng để xây dựng và hướng dẫn Hội thánh.” (GLHTCG số 1547). Như ĐGH Gioan Phaolô II đã trình bày rõ ràng trong tông huấn Hậu thượng hội đồng, Pastores Gregis: “Sự tác động qua lại giữa chức tư tế phổ quát của người giáo dân với chức tư tế thừa tác được bày tỏ theo cách thức perichoresis [tương tác] giữa hai dạng thức của chức tư tế”. (số 10). Sự “tương tác này” đòi hỏi một sự hiểu biết thấu đáo các vai trò, tôn trọng lẫn nhau, và một sự cộng tác nồng nhiệt để Giáo hội có thể trở nên trọn vẹn chính mình trong một thế giới đổi thay không ngừng (cf. CTĐTLM 308, 348, 350).

9. Đời sống tâm linh và phụng vụ


Việc đào tạo tâm linh đặt căn bản trên “một tiếng gọi nền tảng trở thành môn đệ và hoán cải tâm hồn,” để “sống trong sự kết hiệp mật thiết không ngừng với Thiên Chúa là Cha, qua Người Con, là Đức Giêsu Kitô, và trong Thánh Linh” (CTĐTLM 107). Các Bề trên nên giúp cho những ứng sinh linh mục dòng hiểu rằng “để sống luôn sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa là Cha qua Người Con, là Đức Giêsu Kitô, trong Thánh Linh còn bao gồm cái gì hơn cả mối tương quan cá nhân với Chúa Kitô; đó còn là sự kết hợp với Giáo hội, là Thân Mình của Người.” (CTĐTLM 108) Các cộng đoàn đào tạo thiết lập một chương trình đào tạo tâm linh đầy đủ, bao gồm điều quan trọng nhất là việc cử hành Thánh Thể, cũng như Bí tích Thống Hối, cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ, và những việc đạo đức khác thích hợp với linh đạo Dòng. Việc linh hướng, cùng với những thực hành khác như suy niệm riêng, đọc Sách Thánh, tĩnh tâm và những ngày tĩnh tâm, các hành vi khổ chế và sám hối, cũng được thực hành theo như những chỉ dẫn của CTĐTLM số 110.

Trách nhiệm đầu tiên về việc đào tạo nhân bản và tâm linh cho các sinh viên Dòng thuộc về mỗi hội dòng dành cho các thành viên của họ. Bởi thế, việc linh hướng, sự phân biện liên tục về tính bền vững trong ơn gọi và sự khởi đầu vào trong các học thuyết và truyền thống thiêng liêng của hội dòng thì thuộc trách nhiệm của cộng đoàn, của bề trên và các vị phụ trách đào tạo. Ngoài ra mỗi hội dòng còn chịu trách nhiệm về việc xếp đặt thời khóa biểu, gồm Thánh Lễ mỗi ngày, phụng vụ Giờ kinh, tham dự các Bí tích, các việc đạo đức truyền thống, suy niệm và tâm nguyện, và lectio divina tùy theo các truyền thống và hình thức thực hành của hội dòng mình. Các kỳ tĩnh tâm cũng thuộc trách nhiệm của hội dòng. Học viện thần học có nhiệm vụ cung cấp kiến thức về tri thức và mục vụ để hướng dẫn sinh viên của mình bước vào trong các tác vụ tâm linh, nhưng học viện không giữ trách nhiệm chính trong việc đào tạo nhân bản và tâm linh của sinh viên. Tuy nhiên, các sinh viên thần học cũng được khuyến khích tham dự các buổi cử hành phụng vụ và những thực hành thiêng liêng của trường khi thích hợp, nhất là những dịp đặc biệt, lễ kỷ niệm và lễ mừng (cf. CTĐTLM 80, 110, 116-125,127-135, 266-269, 294, 329-333, 351, 353, 372).

10. Những khóa học bắt buộc liên quan đến các tác vụ chuyên biệt của các Hội Dòng


Các Học viện thần học dòng ở Hoa Kỳ đã nhận diện các lãnh vực nghiên cứu liên quan đến những tác vụ đặc thù tương hợp với các sứ vụ và đoàn sủng của các hội dòng mà họ nhận đào tạo. Các lãnh vực này được xác định đáp lại đề nghị của Công Đồng Vatican II (xc. SC 43f, 127; GS 62; AG 40). Những chủ đề này nằm trong chương trình chuẩn bị cho chức linh mục, nhưng đoàn sủng và sứ vụ đặc thù của nhiều hội dòng cần làm nổi bật hơn trong chương trình của các Học viện thần học dòng, chẳng hạn như giáo huấn xã hội của Giáo hội, giảng thuyết và chú giải Thánh kinh, truyền giáo học, tu đức và đồng hành thiêng liêng, đại kết, và đối thoại liên tôn. Những lãnh vực này phản ảnh sứ vụ phát xuất từ chính các đoàn sủng và truyền thống khác nhau của mỗi hội dòng và giúp họ đóng góp những ơn huệ của riêng mình cho đời sống Giáo hội. Vì thế, hiển nhiên là các Học viện thần học có trách nhiệm thúc đẩy việc nghiên cứu và phát triển những lĩnh vực nổi bật này.

Do đoàn sủng của mình, nhiều hội dòng dấn thân vào các sứ vụ ở ngoại quốc, đó cũng là lý do tại sao có nhiều sinh viên tu sĩ quốc tế học tại các học viện thần học của dòng. Xét theo lịch sử các tu sĩ đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong sứ vụ quốc tế của Giáo hội và vẫn còn tiếp tục vai trò đó. Sự dấn thân này giải thích điểm nhấn trong chương trình về việc nghiên cứu xuyên văn hóa, về đại kết và liên tôn, và về những những viễn cảnh hợp tác. Vì thế, sự lựa chọn các phân khoa dưới sự hướng dẫn của các chuyên viên cũng như chọn những môn học, dù bắt buộc hay nhiệm ý, đều đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt để bảo đảm việc các phẩm chất đa dạng về phương diện văn hóa.

Sự lưu ý tới các dấu chỉ thời đại do Công đồng Vatican II gợi lên, lời mời gọi tất cả mọi người nên thánh, sứ vụ tông đồ của tất cả những người đã được rửa tội, và tính cách phục vụ của tác vụ linh mục: tất cả đều là những giá trị quan trọng mà các hội dòng đã muốn du nhập làm mục tiêu sứ vụ. Chúng ta ước mong đào tạo các sinh viên của hội dòng về những giá trị thần học và mục vụ nằm trong các văn kiện của Công đồng. Mẫu gương và các văn kiện của Công Đồng, cùng với những giáo huấn và chỉ dẫn của Huấn Quyền Giáo hội, luôn là những hướng dẫn có thẩm quyền cho những tiến bộ thần học và mục vụ cho phép các hội dòng thích ứng trọn vẹn hơn ý nghĩa của các đoàn sủng và truyền thống của mình.

Cuối cùng, về điểm này, chúng ta ghi nhận rằng nhiều cộng đoàn tu sĩ đã có một truyền thống vững vàng về thần học uyên bác đem ra phục vụ Giáo hội, và vì thế họ cần chuẩn bị cho các ứng viên linh mục của mình nắm bắt được những nguồn mạch chủ yếu và những quan điểm khác biệt trong những nghiên cứu thần học của họ. Việc đào tạo thần học riêng cần phải trung thành với Huấn quyền Giáo hội, cùng với việc nắm bắt có phê bình ý nghĩa nền tảng của thần học Công giáo cũng như một thấu hiểu và yêu mến truyền thống và giáo huấn của Giáo hội, gồm cả tư tưởng của các trường phái đa dạng của truyền thống thần học Công giáo cũng như sự tiếp thu trung thực giáo huấn Công giáo qua các giai đoạn lịch sử cũng như trong nhiều bối cảnh. Một cách nào đó, chính gia sản của các cộng đoàn tu trì giúp giữ vững đời sống trí thức của Giáo hội bằng cách này, và khía cạnh của việc chuẩn bị cho chức linh mục nên được khuyến khích. Thực ra, vấn đề cấp bách đối với nhiều cộng đoàn tu sĩ ngày nay – và rộng hơn đối với cả Giáo hội – là làm cách nào, với con số và khả năng ngày càng giảm, các hội dòng có thể khích lệ những thành viên mới theo đuổi sứ vụ nghiên cứu thần học, đó cũng là cách phục vụ Giáo hội (xc. CTĐTLM 136-235).


11. Bản chất của việc đào tạo mục vụ và những cuộc thực tập


Những mục đích chung của việc đào tạo mục vụ như được nêu ra trong CTĐTLM số 239 cũng trở thành nền tảng cho chương trình đào tạo linh mục dòng. Nhưng việc quyết định sắp xếp thực tập mục vụ phải được cả Học viện thần học và nhà dòng cùng quyết định, tùy theo những nhu cầu cụ thể của hội dòng liên quan đến thể chế và sứ vụ tương lai của họ. Địa điểm và thời gian của những thực tập mục vụ này được chọn lựa sao cho thích hợp với cá nhân và nhu cầu tác vụ cùa hội dòng cũng như giáo xứ. Những cuộc thực tập này sẽ không luôn hoặc phần lớn ở những giáo xứ, nhưng tại nhiều môi trường phục vụ thích hợp (xc. CTĐTLM 73, 154, 196, 236-257, 280, 337-340,357). Việc phân bổ sự thực tập là điều quan trọng đối với lợi ích của sinh viên cũng như của hội dòng.

12. Chương trình hè


Đối với chương trình kỳ hè, các sinh viên tu sĩ tiếp tục sống trong tu viện của họ, dù đó có thể không phải là nhà học, và họ vẫn tiếp tục được đào tạo cũng như học hỏi mẫu gương của các anh em hay của những người đi trước. Chiều kích mục vụ của những sự sắp đặt này được quyết định dựa trên những như cầu cụ thể của mỗi cá nhân tu sĩ cũng như những cơ hội thuận tiện cho việc hội nhập văn hóa và thực hành tác vụ đặc thù. Vì thế, một lần nữa, chính hội dòng, chứ không phải Học viện thần học, chịu trách nhiệm sắp xếp chương trình hè thích hợp và sao cho sinh viên của họ nhận được những kiến thức cần thiết chuẩn bị cho sứ vụ tương lai (CTĐTLM số 278).

13. Việc lượng giá sinh viên về phía Học viện và Hội dòng


Dĩ nhiên việc lượng giá về tiến bộ trí thức thuộc về phân khoa và ban giám đốc của Học viện thần học. Những khía cạnh khác trong việc đào tạo trước hết thuộc về Bề trên và vị phục trách đào tạo. Một số khía cạnh của việc đào tạo mục vụ được Học viện thần học lượng giá, cách đặc biệt là các môn học trong lãnh vực này. Việc đào tạo nhân bản và tâm linh trước hết thuộc trách nhiệm của hội dòng, như đã được nhắc tới; nhưng những người khác, nhất là phân khoa của Học viện thần học, nên tham gia vào việc đánh giá của sự tiến triển, mức độ trưởng thành, và khả năng của sinh viên để thi hành tác vụ. Một cuộc lượng giá đạt được hiệu quả khi có sự cộng tác giữa Học viện và các vị đặc trách của các cộng đoàn đào tạo. Sự cộng tác giữa Học viện và hội dòng giúp cho sự lượng giá các sinh viên được hiệu quả và thống nhất hơn. (xc. CTĐTLM 35, 36, 248, 250, 272-289,326, 338, 361).

14. Đào tạo liên tục


Nhiều hội dòng giáo sĩ có một đặc trách thường huấn, chịu trách nhiệm về việc đào tạo liên tục và bồi dưỡng cho các thành viên trong tỉnh dòng hoặc trong miền. Các Học viện thần học do các hội dòng đỡ đầu thường có sẵn những cơ hội cho việc đào tạo liên tục của các linh mục dòng.

Ngoài ra những cơ hội bồi dưỡng còn bao gồm việc giáo dục chính thức với bằng cấp chuyên môn, những buổi hội thảo hay khóa học chuẩn bị những tác vụ đặc biệt, và những chương trình hay hội thảo dành cho toàn tỉnh dòng hay miền để các thành viên được cập nhật về thần học và thực hành mục vụ. Những trao đổi trong đời sống cộng đoàn tự nó tạo ra cơ hội cho sự phát triển tâm linh, thần học và mục vụ. Ngoài ra, các cuộc hội họp tu viện hàng tháng hay các cuộc hội họp tại các cộng đoàn địa phương cũng đem lại những cơ hội học hỏi chung và đào tạo thường xuyên.

Tham dự vào tất cả những cơ hội thường huấn sẽ làm tăng thêm sinh khí và hiệu năng của dòng và tác vụ. Sự năng động của việc đào tạo liên tục tạo ra một cảm thức về tính đồng trách nhiệm đối với sứ vụ của dòng và tính liên đới của các phần tử trong dòng trong việc nhận biết sứ vụ của mình qua các tác vụ hỗ tương và hợp tác. Pastores Dabo Vobis (số 70) đưa ra một suy tư thần học cho vấn đề này, và nói rằng: “Thiên Chúa không ngừng mời gọi và sai đi, mặc khải kế hoạch cứu độ của Người trong sự thăng tiến lịch sử của đời sống linh mục và trong đời sống của Giáo hội cũng như xã hội… Đào tạo liên tục là cần thiết để nhận ra và bước theo tiếng gọi không ngừng hay ý định của Thiên Chúa.”

Đào tạo liên tục giúp cho các linh mục dòng nhận ra tầm quan trọng mang tính ngôn sứ của đoàn sủng và tác vụ là di sản của họ, để Giáo hội có thể đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa trở nên “bí tích…của sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại [với Chúa] (xc. Lumen Gentium, số 1; CTĐTLM 227, 235, 368-373).

Phần kết


Nói tóm lại, linh mục giáo phận có sứ vụ căn bản là trợ giúp đức giám mục giáo phận trong vai trò là những chủ chăn của Dân Chúa trong một giáo phận cụ thể; trong khi đó linh mục dòng, dù cũng rất thường thi hành tác vụ trong môi trường giáo xứ, lại có tác vụ căn bản là thực hành mục vụ của đoàn sủng và sứ vụ của hội dòng của họ nhằm giúp ích cho Giáo hội. Khả năng sẵn sàng đáp trả những đòi hỏi của đoàn sủng và sứ vụ của dòng cần một sự đào tạo thần học và tâm linh, buộc phải áp dụng các quy tắc của CTĐTLM một cách khác. Mục tiêu chính tuyên bố này đã được nói rõ tại sao và bằng cách nào việc đào tạo linh mục dòng dưới sự hướng dẫn của bề trên thượng cấp của hội dòng có thể giúp đỡ các ứng sinh linh mục dòng; cũng như bằng cách nào các cộng đoàn đào tạo và học viện thần học của các dòng, tham gia cách hữu hiệu và trung thành vào việc đào tạo các linh mục dòng nhằm thiện ích của Giáo hội.

Trong tất cả tiến trình đào tạo các ứng sinh linh mục dòng, thì việc đào tạo tâm linh được diễn ra trước hết – trong nhiều trường hợp đã khởi sự từ một vài năm trước khi ứng sinh bước vào giai đoạn đào tạo học viện. Có một sự khác biệt rõ ràng giữa việc đào tạo tâm linh cá nhân của một tu sĩ trẻ trong đoàn sủng của hội dòng và việc đào tạo sau này của anh để thi hành tác vụ linh mục. Các tu sĩ được đào tạo trong một chương trình được quy định bởi giáo luật và những quy tắc của hội dòng về tập viện, khấn tạm, và khấn trọn đời.

Tinh thần của lời tuyên bố này của HNBTTC là để giúp hội dòng chuẩn bị hữu hiệu hơn cho các ứng sinh của mình nhận tác vụ linh mục cũng như thực hiện theo đúng sứ vụ và giáo huấn của Giáo hội.