_Bộ Giáo Lý Đức Tin_
Văn kiện bắt đầu với hai từ Iuvenescit Ecclesia, mang hình thức một bức thư gửi các Giám mục trên thế giới về mối tương quan giữa các ơn phẩm trật và các ơn charisma, được ban hành vào lễ Hiện xuống (15/5/2016).
Bố cục. Văn kiện được chia làm 5 phần, ngoài nhập đề và kết luận.
Nhập đề (số 1-3)
I. Các charisma theo Tân ước (số 4-8)
II. Tương quan giữa ân huệ phẩm trật và ân huệ charisma theo Huấn quyền cận đại (số 9-10)
III. Nền tảng thần học của tương quan giữa các ân huệ phẩm trật và ân huệ charisma (số 11-12)
IV. Tương quan giữa các ân huệ phẩm trật và charisma trong đời sống và sứ mạng của Hội thánh (số 13-18)
V. Tương quan giữa ơn phẩm trật và ơn charisma trong thực hành của Giáo hội (số 19-23)
Kết luận (số 24)
Ba chương đầu đi tìm nguồn gốc của chiều kích phẩm trật và charisma dựa theo Kinh thánh và Huấn quyền. Trong phần thứ bốn, văn kiện xác định rõ hơn: căn tính của ân huệ phẩm trật (số 14) và căn tính của ân huệ charisma (số 15-16). Cụ thể hơn nữa, văn kiện đề ra tám tiêu chuẩn để phân định các ơn charisma (số 18).
Luận đề căn bản mà văn kiện muốn nêu bật là: hai yếu tố “phẩm trật” và “charisma” đều là cốt yếu trong đời sống và sứ vụ của Hội thánh: hai yếu tố này bổ túc cho nhau, chứ không đối lập với nhau. Đức Gioan Phaolô coi hai yếu tố là “cùng yếu tính” (co-essentiale) với nhau. Vì thế, không được phép tách biệt hoặc đối lập “Hội thánh của thể chế” và “Hội thánh của bác ái” (số 7).
Từ ngữ. Người dịch Tu sĩ Tôma Nguyễn Quốc Minh Tuấn, O.P. dựa theo bản tiếng Anh, và đã được đối chiếu với bản tiếng Ý. Lưu ý về từ ngữ. Charisma thường được dịch là “đặc sủng” hay “đoàn sủng”. Đặc sủng ám chỉ ơn “đặc biệt” chỉ ban cho một vài người chứ không ban cho tất cả các tín hữu; Đoàn sủng ám chỉ ơn nhằm ích lợi của cộng đoàn. Như vậy, mỗi từ ngữ chỉ diễn tả được một khía cạnh của charisma. Thế nhưng, văn kiện đã cho thấy rằng: một đàng, charisma không nhất thiết là ơn đặc biệt, khác thường (số 6); đàng khác, charisma có thể chỉ nhằm đến ích lợi của cá nhân người nhận lãnh (số 5). Vì lý do ấy và cũng để tránh lẫn lộn với “ân sủng” (gratia / grace), chúng tôi giữ nguyên tiếng gốc Hy lạp là charisma (dùng như danh từ hoặc tính từ). Ngoài ra, văn kiện dùng nhiều từ ngữ tương đương nhưng không hoàn toàn trùng nghĩa, vì thế chúng tôi cũng cố gắng phân biệt trong bản dịch, đó là: “donum / gift”: ơn, ân huệ; “gratia / grace”: hồng ân, ân sủng. Những từ ngữ chuyên môn khác: “aggregazione ecclesiale / ecclesial group”: đoàn thể (của Giáo hội); “movimento / movement”: phong trào.
Tải xuống: bản word ; bản pdf
DẪN NHẬP
Các ơn huệ Thánh Linh trong Giáo Hội được sai đi
1. Giáo Hội được trẻ trung hóa nhờ sức mạnh của Tin Mừng, và Thánh Linh (Spirit) liên tục đổi mới Giáo Hội, xây dựng và hướng dẫn Giáo Hội bằng “các ơn phẩm trật và charisma”[1] Công đồng Vaticano II liên tục nhấn mạnh công trình kỳ diệu của Chúa Thánh Linh là thánh hóa Dân Chúa, hướng dẫn, trang điểm Dân này bằng nhân đức, và làm phong phú họ bằng các hồng ân để xây dựng Giáo Hội. Như các Giáo phụ ưa thích nêu bật, tác động của Đấng Bảo trợ (Divino Paraclito) trong Giáo Hội thì thiên hình vạn trạng. Thánh Gioan Kim Khẩu viết:
“Có ân sủng nào hoạt động vì ơn cứu độ của chúng ta mà Thánh Linh chẳng trao ban? Nhờ Ngài, chúng ta được giải thoát khỏi kiếp nô lệ và được mời gọi tiến đến tự do; chúng ta được dẫn đến làm nghĩa tử và, có thể nói, được tái tạo, sau khi đã cất bỏ gánh nặng nề và kinh tởm là chính tội lỗi của chúng ta. Nhờ Thánh Linh, chúng ta nhìn thấy các cộng đoàn tư tế và có được các đội ngũ thầy dạy; từ nguồn mạch này vọt lên những ân huệ mặc khải, các ơn chữa lành, và tất cả những charisma khác làm cho Giáo Hội của Thiên Chúa nên huy hoàng, rực rỡ.”[2]
Nhờ vào chính đời sống Giáo Hội, rất nhiều can thiệp của Huấn quyền, và nghiên cứu thần học, mà chúng ta vui sướng khi ngày càng ý thức được hành động thiên hình vạn trạng của Thánh Linh trong Giáo Hội, tạo nên một sự chú ý đặc biệt đến các ơn charisma mà nhờ đó Dân Chúa mọi thời được trang bị dồi dào để thi hành sứ mệnh của mình.
Thực vậy, công việc loan báo Tin Mừng đã trở nên đặc biệt cấp thiết trong thời đại của chúng ta ngày nay. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Tông huấn Evangelii Gaudium, nhắc nhở rằng:
“Nếu có cái gì đó đáng phải khiến chúng ta trăn trở và áy náy lương tâm, thì đó chính là sự kiện nhiều anh chị em chúng ta đang sống mà không có sức mạnh, ánh sáng và niềm an ủi phát sinh từ tình bạn với Đức Giêsu Kitô, không có một cộng đoàn đức tin nâng đỡ, không tìm thấy ý nghĩa và mục tiêu trong đời.”[3]
Lời mời gọi hãy trở thành một Giáo Hội “đi ra” dẫn chúng ta đến việc đọc lại toàn bộ đời sống Kitô hữu dưới ánh sáng của sứ mệnh truyền giáo.[4] Công cuộc Phúc-âm-hóa chạm đến mọi lãnh vực của Giáo Hội: từ công tác mục vụ thông thường, đến việc rao giảng cho những ai đã từ bỏ đức tin Công giáo, và cách đặc biệt, những người không biết Đức Giêsu Kitô hay luôn luôn khước từ Người.[5] Trong công cuộc cấp bách phải loan báo Tin mừng cách mới mẻ, hơn bao giờ hết cần phải nhận ra và quý trọng các charisma có khả năng đánh thức và nuôi dưỡng đời sống đức tin của Dân Chúa.
Các đoàn thể đa dạng trong Giáo hội
2. Cả trước và sau Công đồng Vaticano II đã xuất hiện rất nhiều các đoàn thể góp phần tạo nên nguồn canh tân lớn lao cho Giáo Hội cũng như cho “sự hoán cải mục vụ và truyền giáo” [6] khẩn thiết của toàn thể đời sống Giáo Hội. Thêm vào giá trị và sự phong phú của tất cả các tổ chức hiệp hội truyền thống với những mục đích riêng biệt, cũng như của các Hội Dòng Tận Hiến và Tu Đoàn Tông Đồ, là các thực tại mới đây có thể được mô tả như những đoàn thể giáo dân, các phong trào Giáo Hội, và các cộng đoàn mới. Văn kiện này muốn bàn đến những thực tại đó. Không thể đơn giản xem những thực tại ấy đơn thuần như là việc một nhóm người tình nguyện họp nhau để theo đuổi một mục tiêu xã hội hay tôn giáo đặc thù nào đó. Trong bối cảnh Giáo Hội, đặc tính “phong trào” giúp những nhóm này nổi bật lên như những thực tại linh động đầy sức mạnh. Họ có khả năng tạo ra một sự hấp dẫn đặc biệt cho Tin Mừng và mang đến một dự án sống đời Kitô hữu, mang tính cách toàn diện, có thể chạm đến mọi khía cạnh của hiện sinh con người. Việc các tín hữu quy tụ lại thành những nhóm hội, cùng chung chia một nếp sống, hầu làm vững mạnh đời sống đức tin, niềm hy vọng và tình bác ái, đã diễn tả đúng đắn và sâu sắc tính năng động của Giáo Hội, mầu nhiệm hiệp thông vì sứ mệnh rao giảng Tin Mừng, đồng thời tự tỏ ra là dấu chỉ cho sự hiệp nhất của Giáo Hội trong Đức Kitô. Với ý nghĩa này, những phong trào được sinh ra từ việc chia sẻ cùng một charisma như vậy hướng về một cùng đích đó là “mục tiêu tông đồ nói chung của Giáo Hội.”[7] Trong cái nhìn này, các hiệp hội giáo dân, phong trào Giáo Hội, và các cộng đoàn mới đề ra những hình thức được canh tân trong việc theo Đức Kitô, đào sâu thêm communio cum Deo (hiệp thông với Thiên Chúa) và communio fidelium (hiệp thông các tín hữu). Nhờ đó, họ mang đến cho những bối cảnh xã hội cảm nghiệm súc tích về vẻ hấp dẫn của cuộc gặp gỡ Chúa Kitô cũng như nét đẹp của đời sống Kitô hữu. Một hình thức truyền giáo và làm chứng đặc thù cũng được diễn tả trong các thực thể như vậy, vừa khích lệ sự tăng trưởng ý thức cách sống động về ơn gọi Kitô hữu của mỗi người, vừa khích lệ sự tăng trưởng của những đường hướng giáo dục Kitô giáo vững chắc cũng như những nẻo đường nên trọn lành theo tinh thần Tin Mừng. Trong các đoàn thể ấy, dựa theo các charisma đa dạng, các tín hữu thuộc về những bậc sống khác nhau (giáo dân, giáo sĩ và tu sĩ), có thể cùng tham gia, nhờ đó họ diễn tả sự phong phú thiên hình vạn trạng của mối thông hiệp trong Giáo Hội. Khả năng họp đoàn của các thực thể ấy tạo nên một lời chứng ý nghĩa cho việc làm thế nào Giáo Hội phát triển “không phải bằng việc chiêu dụ, nhưng bằng ‘sức thu hút’.”[8]
Ngỏ lời với các đại diện của các phong trào và các cộng đoàn mới này, Đức Gioan Phaolô II đã nhận thấy rằng trong tiến trình biến đổi mang chiều kích toàn cầu, thường được đánh dấu bởi một văn hóa thế tục, họ được Thánh Linh gợi lên như là sự “an bài của Chúa” để đáp ứng nhu cầu thông truyền Tin Mừng cho toàn thể thế giới một cách thuyết phục[9]. Men bột của Thánh Linh “ đã mang đến cho đời sống Giáo Hội một sự mới mẻ bất ngờ, và đôi khi làm đảo ngược tình thế.”[10] Vị Giáo hoàng ấy nhớ lại rằng, thời điểm “trưởng thành về mặt Giáo Hội” đã đến với tất cả những đoàn thể ấy. Điều này muốn nói rằng họ được trân trọng và tham dự hoàn toàn “vào các Giáo Hội địa phương và các giáo xứ […] và duy trì sự hiệp thông với các vị mục tử và chú ý đến các chỉ dẫn của các ngài.”[11] Những thực tại mới trên đây làm cho quả tim của Giáo Hội được tràn ngập niềm vui và lòng biết ơn; đồng thời họ được mời gọi liên kết chặt chẽ với tất cả những ân huệ khác hiện diện trong đời sống Giáo Hội.
Mục đích của văn kiện này
3. Với tài liệu này, Bộ Giáo Lý Đức Tin, dưới ánh sáng của mối tương quan giữa “các ơn phẩm trật và charisma”, có ý định nhắc lại các yếu tố thần học và giáo hội học, mà việc hiểu rõ những yếu tố đó sẽ cổ võ tham gia tích cực và có trật tự của các đoàn thể mới vào sự hiệp thông và sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội. Để được như vậy, trước hết, văn kiện sẽ trình bày vài yếu tố then chốt của đạo lý về các charisma trong Tân Ước cùng những suy tư của Huấn quyền về các thực thể mới này. Tiếp đến, dựa trên những nguyên tắc chắc chắn của Thần học hệ thống, văn kiện sẽ trình bày các yếu tố đặc trưng của các ơn phẩm trật và charisma kèm theo một vài tiêu chuẩn cho việc phân định các đoàn thể mới trong Giáo Hội.
I. CÁC CHARISMA TRONG TÂN ƯỚC
Ân sủng và charisma
4. Hạn từ charisma tiếng Hy Lạp, thường được thấy trong các thư của thánh Phaolô cũng như xuất hiện trong thư thứ nhất của thánh Phêrô. Charisma có nghĩa chung là “món quà”, và trong Tân Ước, hạn từ này chỉ được dùng cho những quà tặng của Thiên Chúa. Bối cảnh trong mỗi bản văn sẽ đưa ra một nghĩa chính xác hơn (x. Rm 12,6; 1Cr 12, 4-31; 1Pr 4,10), mà nét cơ bản là sự phân phát các hồng ân khác nhau.[12] Trong ngôn ngữ hiện đại, charisma cũng được dùng theo nghĩa là ân huệ. Không như các ân sủng cơ bản, chẳng hạn như ơn thánh sủng hoặc các ơn đức tin, đức cậy, đức mến, vốn không thể thiếu đối với từng Kitô hữu, các charisma đặc thù không nhất thiết được ban cho tất cả mọi người (x. 1Cr 12,30). Các charisma là những quà tặng đặc biệt mà Chúa Thánh Thần phân chia “theo như Ngài muốn” (1Cr 12,11). Để cho thấy sự cần thiết của các charisma khác nhau trong Giáo Hội, hai bản văn rõ ràng sau đây (Rm 12, 4-8; 1Cr 12, 12-30) dùng cách so sánh với thân thể con người:
“Cũng như trong một thân thể có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng, thì chúng ta cũng vậy: tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Ki-tô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể. Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin” (Rm 12, 4-6).
Giữa các bộ phận trong thân thể, sự đa dạng không phải là tình trạng bất ổn cần phải tránh, trái lại, sự đa dạng đó vừa cần thiết lại vừa hữu ích. Chính sự đa dạng của các bộ phận giúp hoàn thành các chức năng trao ban sự sống. “Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một” (1Cr 12, 19-20). Thánh Phaolô trong Rm 12,6 và thánh Phêrô trong 1Pr 4,10 đã khẳng định có một mối tương quan gần gũi giữa các charisma (charísmata) và các ân sủng (charis) của Thiên Chúa.[13] Các charisma được nhìn nhận như là một sự tỏ lộ các “ân sủng thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa” (1Pr 4, 10). Vì thế, các charisma không đơn thuần là những tài năng của con người. Nguồn gốc thần linh của các charisma được diễn tả bằng nhiều cách khác nhau: theo vài đoạn văn, các charisma đến từ Thiên Chúa (x. Rm 12,3; 1Cr 12,28; 2Tm 1,6; 1Pr 4,10); theo Ep 4,7, các charisma đến từ Đức Kitô; theo 1Cr 12, 4-11, các charisma đến từ Thánh Linh. Bởi vì bản văn này nhấn mạnh nhiều nhất đến Thánh Linh (7 lần), cho nên các charisma thường được trình bày như là “sự tỏ lộ của Thánh Linh” (1Cr 12,7). Dầu vậy, rõ ràng sự quy gán này không mang tính độc hữu cũng không trái ngược với hai sự quy gán kia. Các ơn ban của Thiên Chúa luôn luôn mang chiều kích Ba Ngôi, như thần học đã khẳng định ngay từ ban đầu, ở cả Giáo Hội Tây Phương lẫn Giáo Hội Đông Phương.[14]
Các ơn huệ được ban “vì lợi ích” và vị trí hàng đầu của đức ái
5. Trong 1Cr 12,7, thánh Phaolô tuyên bố rằng: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách là vì lợi ích”. Nhiều bản dịch thêm vào “vì lợi ích chung” bởi vì đa số các charisma được thánh Phaolô đề cập, dẫu không phải là tất cả, đều trực tiếp hướng về ích lợi của cộng đoàn. Mục tiêu xây dựng mọi người đã được hiểu cách rõ ràng, chẳng hạn như thánh Basiliô Cả:
“Các ơn ban mà mỗi người nhận được là cho cộng đoàn hơn cho chính người ấy […]. Trong đời sống chung, cần làm sao để cho sức mạnh của Chúa Thánh Thần được ban cho một người, cũng được trao cho tất cả. Một người chỉ biết sống cho riêng mình, dẫu có được charisma thì nó cũng ra vô dụng bởi vì nó không hoạt động, nó bị chôn vùi trong người đó.”[15]
Tuy thế, thánh Phaolô cũng không phủ nhận rằng một ân sủng có thể chỉ hữu ích cho riêng người được lãnh nhận. Trường hợp điển hình là ơn nói tiếng lạ, khác với ơn ngôn sứ xét theo khía cạnh này.[16] Các charisma nhằm lợi ích chung, dù là các ơn về ngôn ngữ (khôn ngoan, tri thức, ngôn sứ, huấn dụ), hay về hoạt động (sức mạnh, thừa tác vụ, quản trị) cũng đều có ích lợi cá nhân, bởi vì khi hoạt động vì ích chung, các charisma cũng giúp làm tăng trưởng đức ái nơi người được lãnh nhận. Liên quan đến vấn đề này, thánh Phaolô nhận thấy rằng nếu một người thiếu đức ái, dẫu được ban những charisma cao vời nhất, cũng chẳng ích gì cho người ấy (x. 1Cr 13, 1-3). Một đoạn văn nghiêm khắc trong Tin Mừng Mátthêu (Mt 7, 22-23) cũng diễn tả cùng một thực tế đó: tiếc thay việc sử dụng các charisma nổi tiếng (ngôn sứ, trừ quỷ, làm phép lạ) có thể cùng hiện hữu với tình trạng thiếu sót mối tương quan đích thực với Đức Kitô, Đấng Cứu Thế. Vì vậy, thánh Phêrô cũng như thánh Phaolô đều khẳng định sự cần thiết của việc hướng toàn bộ các charisma về đức ái. Thánh Phêrô đưa ra một quy tắc chung: “Charisma riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa” (1Pr 4,10). Thánh Phaolô đặc biệt quan tâm đến việc sử dụng các charisma trong những buổi quy tụ của cộng đoàn Kitô hữu và nói: “Tất cả những điều ấy đều phải nhằm xây dựng Hội Thánh” (1Cr 14,26).
Sự đa dạng của các charisma
6. Trong một vài bản văn, chúng ta tìm thấy một danh sách các charisma, đôi khi mang tính đại cương (x. 1Pr 4,10), lúc khác lại chi tiết hơn (x. 1Cr 12, 8-10; Rm 12, 6-8). Trong số những charisma được liệt kê ra, có nhiều ơn khác thường (chữa lành, làm phép lạ, nói tiếng lạ) và những ơn thông thường (giảng dạy, phục vụ, từ thiện), những tác vụ hướng dẫn cộng đoàn (x. Ep 4,11) và những ân huệ được trao ban qua việc đặt tay (x. 1Tm 4,14; 2Tm 1,6). Không luôn luôn rõ ràng rằng, những ân huệ này được xem là những “charisma” theo nghĩa chặt. Những ân huệ khác thường được đề cập nhiều lần trong 1Cr 12-14, nhưng biến mất ở các bản văn viết sau đó: danh sách trong Rm 12, 6-8 chỉ trình bày những charisma bình thường, nhưng có ích lợi bền bỉ cho đời sống của cộng đoàn Kitô hữu. Không bản danh sách nào chủ trương rằng đã liệt kê thấu đáo và đầy đủ. Ví dụ, ở chỗ khác, thánh Phaolô gợi ý rằng việc chọn lựa sống độc thân vì tình yêu dành cho Đức Kitô cũng được hiểu là hoa trái của charisma, tương tự như chọn lựa đời sống vợ chồng (x. 1Cr 7,7 trong bối cảnh của cả chương). Các ví dụ mà ngài đưa ra phụ thuộc mức độ phát triển mà các Giáo Hội lúc bấy giờ đạt đến, và vì thế có thể thêm nhiều điều khác nữa. Thật vậy, Giáo Hội luôn lớn lên qua mọi thời nhờ vào hành động truyền sức sống của Thánh Linh.
Việc sử dụng đúng đắn các charisma trong cộng đoàn Hội Thánh
7. Từ những quan sát trên đây, chúng ta thấy rằng, các bản văn Kinh Thánh không trình bày sự đối lập giữa các charisma đa dạng; đúng hơn, chúng ta nhìn thấy một sự nối kết hài hòa và bổ khuyết giữa các charisma ấy. Trong thực tế, sự đối lập giữa Giáo Hội thể chế của Kitô-giáo gốc Do-thái và Giáo Hội đoàn sủng của thánh Phaolô, theo như vài lối giải thích giản lược về Giáo Hội, không tìm thấy một nền tảng trong các bản văn của Tân Ước. Thánh Phaolô không hề đặt ân sủng một bên và các thực tại thể chế một bên, hoặc đặt ra sự đối nghịch giữa một Giáo Hội “của đức ái” với một Giáo Hội “của thể chế”, nhưng ngài gom vào trong một danh sách những người nhận được các charisma điều hành và giảng dạy, các charisma hữu ích cho đời sống thường nhật của cộng đoàn, và các charisma nổi tiếng hơn.[17] Chính thánh Phaolô đã mô tả việc phục vụ với tư cách Tông đồ của mình cũng là “tác vụ của Thần Khí” (2Cr 3,8). Thánh nhân cảm thấy được Thiên Chúa ban cho quyền hành (exousía) (x. 2Cr 10,8; 13,10), một quyền hành bao trùm trên các charisma nữa. Cả thánh Phaolô lẫn thánh Phêrô đều đưa ra những chỉ dẫn cho những người có charisma về cách thức sử dụng các ơn đó. Trước hết, họ cần phải biết đón nhận chúng; họ cần biết xác tín về nguồn gốc thần linh của các ơn đó; tuy nhiên, họ đừng xem những ân huệ này như thể cho phép mình được miễn tuân phục phẩm trật Hội Thánh, hay ban cho quyền thi hành tác vụ cách độc lập, tự trị. Thánh Phaolô đã ý thức về những trở ngại và hạn chế mà việc sử dụng vô trật tự các ân sủng có thể khơi lên trong cộng đoàn Kitô hữu.[18] Vì vậy, với quyền hành của mình, thánh nhân đã can thiệp để thiết lập những quy tắc chính xác cho việc sử dụng các ân sủng “trong Giáo Hội” (1Cr 14, 19-28), tức là trong những buổi hội họp của cộng đoàn (x. 1Cr 14, 23-26). Ví dụ, ngài giới hạn việc sử dụng ơn ngôn ngữ.[19] Các quy tắc tương tự cũng được quy định cho ơn ngôn sứ (x. 1Cr 14, 29-31).[20]
Các ơn phẩm trật và các ơn charisma
8. Tóm lại, sau khi khảo sát các bản văn Kinh Thánh liên quan đến charisma, chúng ta thấy nổi bật lên điều này là, mặc dù không đưa ra một giáo huấn hệ thống trọn vẹn, nhưng Tân Ước trình bày những khẳng định quan trọng lớn lao giúp định hướng suy tư và thực hành của Giáo Hội. Bên cạnh đó, cũng phải nhận thấy rằng hạn từ “charisma” không được sử dụng đồng nghĩa (univoco); đúng hơn, phải chấp nhận rằng hạn từ này có nhiều ý nghĩa khác nhau; và đây là điều mà những suy tư thần học cũng như Huấn quyền giúp ta hiểu được trong cái nhìn toàn vẹn về mầu nhiệm Giáo Hội. Trong văn kiện này, chúng tôi chú ý tới bộ kép “các ơn phẩm trật và đoàn sủng”, được nêu bật trong đoạn 4 của Hiến chế Lumen Gentium, đề cập đến mối tương quan rất gần gũi và gắn kết chặt chẽ giữa hai bên. Chúng có cùng nguồn gốc và mục đích. Chúng là những ân huệ của Chúa Cha, của Thánh Linh và của Đức Kitô, được trao ban ngõ hầu, bằng nhiều cách thức đa dạng, góp phần xây dựng Giáo Hội. Những ai đã nhận được ân huệ để lãnh đạo trong Giáo Hội cũng có trách nhiệm lo liệu sao các charisma khác cũng được thực hành tốt đẹp, ngõ hầu tất cả góp phần vào ích chung của Giáo Hội cũng như vào sứ mệnh rao giảng Tin Mừng, trong sự nhận thức rõ ràng rằng chính cùng một Thánh Linh phân phát các ơn charisma cho bất kỳ ai mà Ngài muốn (x. 1Cr 12,11). Cũng chính Ngài ban cho phẩm trật Hội Thánh khả năng phân định tính chân thực của các charisma, đón nhận chúng với niềm hân hoan và lòng tri ân, quảng đại cổ võ chúng, và đồng hành với chúng, với sự tỉnh thức của hiền phụ. Chính lịch sử đã minh chứng cho thấy hành động thiên hình vạn trạng của Thánh Linh, nhờ đó Giáo Hội thi hành sứ mệnh của mình trong thế giới., “nhờ được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Ki-tô Giê-su” (Ep 2,20).
II. MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC ƠN PHẨM TRẬT VÀ ƠN CHARISMA TRONG HUẤN QUYỀN NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Công đồng Vaticano II
9. Tuy chẳng bao giời thiếu các charisma khác nhau trải qua dòng lịch sử của Giáo hội, nhưng chỉ vào thời đại gần đây, mới có được một suy tư hệ thống về chúng. Mặc dù Giáo huấn của đức Piô XII, được trình bày trong Thông điệp Mystici Coporis[21], đã dành một đoạn quan trọng cho đạo lý về các charima, thế nhưng một bước tiến quyết định cho việc hiểu biết tương xứng về mối tương quan giữa các ơn phẩm trật và ơn charisma được thực hiện nhờ Công đồng Vaticano II. Các đoạn văn có liên quan đến chủ đề này[22] cho thấy rằng trong đời sống Giáo Hội, ngoài Lời Chúa đã được viết và truyền lại, các Bí tích và các tác vụ phẩm trật có chức thánh, còn có sự hiện diện của các ân huệ, các đặc sủng hay các charisma, được Thánh Linh phân phát cho các tín hữu thuộc những thành phần khác nhau. Đoạn văn tiêu biểu nhất liên quan đến điều này là số 4 của hiến chế Lumen Gentium: “Thánh Linh dẫn đưa Giáo Hội đến sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,13), và hợp nhất Giáo Hội trong sự hiệp thông và trong tác vụ, Ngài xây dựng và hướng dẫn Giáo Hội với những ơn phẩm trật và ơn charisma khác nhau, Ngài trang điểm Giáo Hội bằng các hoa quả của Ngài (x. Ep 4, 11-12; 1Cr 12,4; Gl 5,22).”[23] Như thế, trong việc trình bày các ân huệ của Thánh Linh, qua việc phân biệt sự đa dạng giữa các ơn phẩm trật và ơn charisma, Hiến chế Lumen Gentium nêu bật sự khác biệt trong sự thống nhất. Cũng thật là quan trọng những khẳng định trong số 12 của Lumen Gentium liên quan đến các hiện tượng charisma trong bối cảnh việc tham dự tích cực của cộng đoàn Dân Chúa vào chức vụ ngôn sứ của Đức Kitô. Công đồng nhìn nhận rằng, Thánh Linh không chỉ giới hạn “vào việc thánh hóa, dẫn dắt Dân Chúa nhờ các bí tích và những tác vụ của Giáo Hội và trang điểm Dân Chúa bằng những nhân đức,” nhưng “còn phân phát những ân sủng đặc biệt cho các tín hữu thuộc mọi cấp bậc. Nhờ đó, Ngài làm cho họ nên thích hợp và sẵn sàng đảm nhận các công việc và chức vụ khác nhau có ích cho việc canh tân và mở rộng Giáo Hội.”
Cuối cùng, vẻ thiên hình vạn trạng và sự an bài của Thiên Chúa nơi các ơn ấy được mô tả như sau:
“Dù là ơn thật đặc biệt hay ơn thật đơn sơ hoặc được ban rộng rãi cho nhiều người, những charisma này phải được lãnh nhận với lòng tri ân và niềm an ủi, vì đó là những ơn thích hợp và đáp ứng những nhu cầu của Giáo Hội.”[24]
Những suy tư tương tự cũng được gặp trong Sắc lệnh của công đồng về Tông đồ Giáo dân.[25] Văn kiện này cũng khẳng định rằng không nên coi những ân huệ như thế như là nhiệm ý trong đời sống Giáo Hội; nhưng “từ việc lãnh nhận những charisma này, dù rất đơn sơ, mỗi tín hữu đều có quyền và bổn phận sử dụng những ơn đó trong Giáo Hội cũng như giữa trần gian, để mưu ích cho mọi người và xây dựng Giáo Hội trong tự do của Chúa Thánh Thần.”[26] Vì vậy, những charisma đích thực được xem như là những ân huệ quan trọng không thể thiếu cho đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội. Cuối cùng, giáo huấn của Công đồng hằng nhận thấy vai trò thiết yếu của các vị mục tử trong việc phân định các charisma cũng như việc vận dụng cách có trật tự trong tình hiệp thông với Giáo Hội.[27]
Huấn quyền hậu Công đồng
10. Trong giai đoạn sau Công đồng Vaticano II, những can thiệp của Huấn quyền về chủ đề này bắt đầu tăng gia.[28] Sức sống tăng trưởng của các phong trào mới, các đoàn thể và các cộng đoàn Giáo Hội, cùng với nhu cầu định rõ vị trí của Đời sống Thánh hiến trong Giáo Hội đã góp phần vào việc này.[29] Thánh Gioan Phaolô II, trong Giáo huấn của mình, khẳng định cách đặc biệt về nguyên tắc các ân huệ này “cùng yếu tính” (co-essenzialità) với nhau:
“Tôi vẫn nhấn mạnh nhiều lần rằng trong Giáo Hội, không có sự xung khắc hay đối đầu giữa chiều kích thể chế và chiều đích charisma, mà các phong trào là một biểu hiện đặc biệt quan trọng và ý nghĩa. Cả hai đều đồng bản chất trong cấu tạo thần linh của Giáo Hội do chính Đức Giêsu thiết lập, bởi vì chúng cộng tác vào việc giúp làm cho mầu nhiệm Đức Kitô và công trình cứu chuộc của Ngài hiện diện trong thế giới.”[30]
Ngoài việc xác nhận tính “cùng yếu tính” của các charisma, đức Bênêđictô XVI còn đào sâu khẳng định của vị tiền nhiệm của mình bằng cách nhắc nhở rằng:
“Trong Giáo Hội, những định chế quan trọng cũng mang tính charisma, và đàng khác, các charisma cũng cần được trở thành định chế bằng cách này hay cách khác để có được sự gắn kết và liên tục. Chính vì vậy, cả hai chiều kích này bắt nguồn từ cùng một Thánh Linh nhắm đến cùng một Thân thể Đức Kitô, và cùng nhau chúng kết hợp để làm cho mầu nhiệm và công trình cứu chuộc của Đức Kitô hiện diện trong thế giới.”[31]
Vì thế các ơn phẩm trật và charisma liên kết tương hỗ với nhau ngay từ chính nguồn gốc của mình. Cuối cùng, Đức thánh cha Phanxicô, đã nhắc lại “sự hài hòa” mà Thánh Linh đã tạo ra giữa các ân huệ đa dạng đồng thời kêu gọi các đoàn thể charisma hãy mở rộng sứ vụ truyền giáo, vâng phục các vị mục tử, và duy trì tình hiệp thông với Giáo Hội,[32] vì “chính trong cộng đoàn mà các ân huệ do Chúa Cha tuôn đổ trên chúng ta mới sum suê và nở rộ; chính trong sự nở rộ của cộng đoàn mà một người học được cách nhận ra các ân huệ đó như một dấu chỉ tình yêu của người đó dành cho con cái của mình.”[33] Vì vậy, tóm lại, có thể nhận ra sự đồng quy trong các bản văn Huấn quyền gần đây về sự “đồng yếu tính” giữa ơn phẩm trật và ơn charisma. Nếu cho rằng hai ơn này đối lập với nhau, hoặc chỉ kề cận với nhau, thì đó là dấu hiệu sai lầm hay hiểu chưa đủ về hoạt động của Thánh Linh trong đời sống và sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.
III. NỀN TẢNG THẦN HỌC CỦA MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA ƠN PHẨM TRẬT VÀ ƠN CHARISMA
Các ân huệ Thánh Linh trong viễn cảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi và của Đức Kitô
11. Để nắm bắt được những lý do thâm sâu của mối tương quan giữa các ơn phẩm trật và các ơn charisma, đã đến lúc phải nhắc lại nền tảng Thần học của chúng. Thật vậy, chính nhiệm cục cứu độ đòi hỏi phải vượt qua sự tương phản khô khan hay sự kề cận ngoại tại giữa các ơn phẩm trật và ơn charisma, bởi vì dựa trên mối tương quan nội tại giữa sứ mệnh của Ngôi Lời nhập thể và của Thánh Linh. Trong thực tế, mọi ân huệ của Chúa Cha đều quy chiếu về hoạt động chung và phân biệt của các sứ mệnh thần linh [* missiones divinae. Thường dịch là hai cuộc “phái cử”: Chúa Cha “phái” Đức Kitô đến trần gian; Chúa Cha và Chúa Kitô “phái” Thánh Linh]: mọi ân huệ đều đến từ Cha, qua Con, trong Thánh Thần. Ân huệ Thánh Linh trong Giáo Hội được gắn kết chặt chẽ với sứ mệnh của Ngôi Con, được hoàn tất trọn vẹn trong Mầu nhiệm Vượt Qua của Người. Chính Đức Giêsu nối kết việc hoàn thành sứ mệnh của mình với việc phái Thánh Linh đến cho cộng đoàn những tín hữu.[34] Vì thế, Thánh Linh không thể khởi sự một nhiệm cục nào khác ngoài nhiệm cục của Ngôi Lời nhập thể, chịu đóng đinh và phục sinh.[35] Thực vậy, toàn thể nhiệm cục bí tích của Giáo Hội là việc Thánh Linh làm hiện thực mầu nhiệm Nhập Thể: vì thế, Thánh Linh được Truyền Thống xem như linh hồn của Giáo Hội, Thân thể của Đức Kitô. Hoạt động của Thiên Chúa trong lịch sử luôn hàm ngụ mối tương quan giữa Chúa Con và Thánh Linh, được thánh Irênê Lyon gọi là “đôi tay của Cha”[36]. Theo nghĩa này, mỗi ân huệ Thánh Thần đều có mối tương quan với Ngôi Lời nhập thể[37]
Vì vậy mối dây nguyên thủy giữa các ơn phẩm trật (được trao ban cùng với ân sủng bí tích Truyền Chức) và các ơn charisma (được Thánh Linh phân phát tự do) có gốc rễ sâu xa nơi mối tương quan giữa Ngôi Lời nhập thể và Thánh Linh, Đấng luôn là Thánh Linh của Chúa Cha và của Chúa Con. Vì vậy, để tránh khỏi những quan điểm thần học hàm hồ chủ trương một “Giáo Hội của Thánh Linh,” tách rời khỏi Giáo Hội phẩm trật và thể chế, cần phải nêu bật rằng hai sứ mệnh thần linh luôn luôn gắn bó với nhau trong mỗi ân huệ được phú ban cho Giáo Hội. Trong thực tế, sứ mệnh của Đức Giêsu Kitô đã bao hàm hoạt động của Thánh Linh. Trong thông điệp về Chúa Thánh Thần, Dominum et Vivificantem, đức Gioan Phaolô II đã cho thấy tầm quan trọng mang tính quyết định của hoạt động Thánh Linh trong sứ mệnh của Con.[38] Đức Bênêđictô XVI đã đào sâu nhận thức này trong Tông huấn Sacramentum Caritatis của mình, ngài nhắc nhở rằng, Đấng Bảo Trợ (Paraclitus) “vốn hoạt động từ lúc khởi nguyên (x. St 1,2), đã hiện diện trọn vẹn xuyên suốt cuộc đời trần thế của Ngôi Lời Nhập Thể.” Đức Giêsu Kitô “được cưu mang bởi Đức Trinh nữ Maria do quyền năng của Thánh Linh (x. Mt 1,18; Lc 1,35); lúc khởi đầu sứ vụ công khai, bên bờ sông Giođan, Người nhìn thấy Thánh Linh ngự xuống trên mình dưới hình chim bồ câu (x. Mt 3,16 và những bản văn song song); Người hoạt động, nói năng và vui mừng trong Thánh Linh (x. Lc 10,21), và Người trao ban chính mình trong Thánh Linh (x. Hr 9,14). Trong ‘diễn từ tạm biệt’ do thánh Gioan tường thuật, Đức Giêsu gắn kết cách rõ ràng việc hiến dâng mạng sống của mình trong Mầu nhiệm Vượt Qua với ân huệ Thánh Linh ban cho các môn đệ (x. Ga 16,7). Sau khi phục sinh, với những dấu tích cuộc vượt qua còn mang trên thân thể, Người có thể đổ tràn Thánh Linh trên các môn đệ (x. Ga 20,22), làm cho họ được chia sẻ sứ mệnh của mình (x. Ga 20,21). Khi đó, Thánh Linh sẽ dạy cho các môn đệ tất cả mọi điều và khiến họ nhớ lại tất cả những gì mà Đức Kitô đã nói (x. Ga 14,26), bởi Ngài, xét như là Thần Khí Sự Thật (x. Ga 15,26), sẽ giữ trọng trách dẫn đưa các môn đệ đến với sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,13). Trong trình thuật của sách Công vụ, Thánh Linh ngự xuống trên các Tông đồ đang tụ họp cầu nguyện cùng Đức Maria vào ngày lễ Ngũ Tuần (x. 2, 1-4) và linh hoạt các ngài đảm trách sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân.”[39]
Tác động của Thánh Linh trong các ơn phẩm trật và ơn charisma
12. Việc đặt các ơn huệ thần linh trong viễn ảnh của Chúa Ba Ngôi và Đức Kitô cũng làm sáng tỏ mối tương quan giữa các ơn phẩm trật và ơn charisma. Thật vậy, nơi các ơn phẩm trật (gắn liền với bí tích Truyền Chức Thánh) mối liên hệ với tác động cứu độ của Đức Kitô rất rõ rệt – ví dụ, việc thiết lập bí tích Thánh Thể (x. Lc 22,19; 1Cr 11,25), quyền tha tội (x. Ga 20,22), mệnh lệnh rao giảng Tin Mừng và làm Phép Rửa (Mc 16,15; Mt 28, 18-20); một cách tương tự như vậy, đã rõ là không thể có bí tích nào được ban nếu không có tác động của Thánh Linh.[40] Mặt khác, các ơn charisma, được phú ban bởi Thánh Linh, “Đấng như gió, muốn thổi đâu thì thổi” (x. Ga 3,8) và phân phát các ân huệ của mình “tùy theo ý của Người” (1Cr 12,11), được gắn kết cách khách quan với đời sống mới trong Đức Kitô, xét vì mỗi Kitô hữu “là một bộ phận” (1Cr 12,27) của Thân thể Người. Vì vậy, ta chỉ có thể hiểu biết đúng đắn về các ơn charisma khi quy chiếu đến sự hiện diện của Đức Kitô và việc phục vụ Người; như Đức Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Các charisma đích thực chỉ có thể hướng về cuộc gặp gỡ với Đức Kitô nơi các bí tích.”[41] Vì vậy, các ơn phẩm trật và charisma được liên kết nên một trong sự quy chiếu đến mối tương quan nội tại giữa Đức Giêsu Kitô và Thánh Linh. Thánh Linh vừa là Đấng, qua các bí tích, phân phát cách hiệu quả các ơn cứu độ được trao ban bởi Đức Kitô chịu chết và sống lại, vừa là Đấng phú ban các charisma. Trong Phụng vụ của các Kitô hữu Đông Phương, đặc biệt trong truyền thống Syria, vai trò của Thánh Linh, được tượng trưng bằng hình ảnh ngọn lửa, giúp làm sáng tỏ cảm nghiệm này. Thật vậy, thánh Éphrem Syria, một thần học gia và là một thi sĩ vĩ đại, đã nói: “Ngọn lửa của lòng trắc ẩn ngự xuống / và cư ngụ trong tấm bánh”[42] . Lời này nói lên tác động biến đổi của Thánh Linh không những đối với lễ phẩm mà còn đối với những tín hữu sẽ ăn tấm bánh Thánh Thể. Viễn cảnh của Giáo Hội Đông Phương, cùng với tác dụng mạnh mẽ của các hình ảnh được sử dụng, giúp chúng ta hiểu rằng Chúa Kitô ban Thánh Linh cho chúng ta khi chúng ta đến gần với bí tích Thánh Thể. Rồi cũng chính Thánh Linh, qua các hoạt động của mình nơi các tín hữu, sẽ nuôi dưỡng đời sống của họ trong Đức Kitô, lại dẫn dắt họ đến với một đời sống bí tích thâm sâu hơn, nhất là bí tích Thánh Thể. Như vậy, tác động tự do của Thiên Chúa tam vị trong lịch sử mang đến cho các tín hữu ơn cứu độ, và đồng thời, thúc đẩy để họ có thể đáp trả ơn huệ một cách tự do và trọn vẹn qua việc dấn thân trong cuộc sống.
IV. MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC ƠN PHẨM TRẬT VÀ CHARISMA TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ MỆNH CỦA GIÁO HỘI
Trong Giáo Hội như là mầu nhiệm hiệp thông
13. Giáo Hội được trình bày như “một dân tộc được hợp nhất khởi nguồn từ sự hợp nhất của Cha, Con và Thánh Thần,”[43] nơi đó mối tương quan giữa các ơn phẩm trật và charisma được nhìn như hướng đến sự tham dự trọn vẹn của các tín hữu vào tình hiệp thông và sứ mệnh loan báo Tin Mừng của Giáo Hội. Trong Đức Kitô, chúng ta đã được tiền định đến cuộc sống mới mà không do công lênh nào (Rm 8, 29-31; Ep 1, 4-5). Thánh Linh “thực hiện sự hiệp thông kỳ diệu nơi các tín hữu, và liên kết tất cả trong Đức Kitô cách mật thiết đến nỗi Ngài trở thành nguyên ủy hợp nhất của Giáo Hội,”[44] Thực vậy, chính trong Giáo Hội mà mọi người được mời gọi để trở nên những thành viên thuộc về Đức Kitô[45], và chính trong tình hiệp thông Giáo Hội dựa trên sự hợp nhất trong Đức Kitô, họ được kêu gọi trở nên như những thành viên thuộc về nhau. Tình hiệp thông luôn luôn là “một sự tham dự sinh động vào hai chiều kích: sự tháp nhập của các Kitô hữu vào đời sống của Đức Kitô, và sự lan tỏa của chính đức ái giữa toàn thể tín hữu trong thế giới hiện nay và trong thế giới mai hậu. Hiệp nhất với Đức Kitô và trong Đức Kitô; cũng như hiệp nhất giữa các Kitô hữu trong Giáo Hội.”[46] Theo nghĩa này, mầu nhiệm Giáo Hội tỏa sáng “trong Đức Kitô như là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và là khí cụ của sự hợp nhất mật thiết với Thiên Chúa và của sự đoàn kết nhân loại.”[47] Từ đó, người ta có thể nhận thấy nguồn gốc bí tích của Giáo Hội, xét như là một mầu nhiệm hiệp thông:
“Về cơ bản, điều này muốn nói về tình hiệp thông với Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô, trong Thánh Linh. Tình hiệp thông này được thực hiện trong Lời Chúa và trong các bí tích. Bí tích Rửa Tội – liên kết gần gũi với bí tích Thêm Sức – là cửa ngõ và là nền tảng của tình hiệp thông trong Giáo Hội. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn thể đời sống Kitô hữu.”[48]
Các bí tích Khai tâm là những yếu tố cấu thành của đời sống Kitô hữu, và các ơn phẩm trật và charisma dựa trên các bí tích này. Nhờ được xếp đặt hài hòa ngay trong nội tại như thế, sự hiệp thông Giáo Hội được sống nhờ việc liên tục chú tâm vào Lời Chúa và được nuôi dưỡng nhờ các bí tích. Chúng ta biết rằng Lời Chúa được liên kết chặt chẽ với các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể,[49] trong khung cảnh của một viễn ảnh bí tích duy nhất của Mặc Khải. Truyền thống Đông Phương nhìn Giáo Hội, thân thể Đức Kitô được linh hoạt nhờ Thánh Linh, như là một sự hiệp nhất có trật tự; điều này cũng được áp dụng cho các ân huệ. Sự hiện diện hữu hiệu của Thánh Linh trong tâm hồn các tín hữu (x. Rm 5,5) là căn nguyên của tình hiệp nhất đó thậm chí trong những biểu lộ của các charisma.[50] Quả vậy, các charisma được ban cho từng cá nhân cũng là thành phần của Giáo Hội và nhắm tới một đời sống Giáo Hội mãnh liệt hơn. Quan điểm này cũng được trình bày trong các tác phẩm của chân phước John Henry Newman: “Tâm hồn của mỗi Kitô hữu cần phải diễn tả một Giáo Hội thu nhỏ, vì chưng, cùng một Thánh Linh đã làm cho toàn thể Giáo Hội lẫn từng thành viên trở nên Đền Thờ của Ngài.”[51] Vì thế, điều này cho thấy rõ lý do vì sao không thể nào chấp nhận được những chủ trương cho rằng các ơn phẩm trật và charisma đối lập với nhau hoặc chỉ kề cận bên nhau.
Tóm lại, mối tương quan giữa các ơn charisma và cấu trúc bí tích của Giáo Hội xác nhận sự “cùng yếu tính” giữa các ơn charisma và các ơn phẩm trật (những ơn này tự nó là ổn định, thường trực, không thể rút lại). Mặc dù hình thức lịch sử của các ơn charisma không được bảo đảm sẽ bền vững mãi,[52] nhưng chiều kích charisma sẽ không bao giờ thiếu trong đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội.
Căn tính của các ơn phẩm trật
14. Để thánh hóa mỗi thành viên của Dân Chúa và để thi hành sứ mệnh của Giáo Hội trong thế giới, trong số những ân huệ khác nhau, “ơn Tông đồ là cao trọng nhất: chính Thánh Linh đặt ngay cả những người lãnh nhận các charisma dưới quyền của các ngài.”[53] Chính Đức Giêsu Kitô đã mong ước rằng, các ơn phẩm trật phải được hiện hữu ngõ hầu bảo đảm cho sự hiện diện liên tục của tư cách làm trung gian cứu độ của Người: “Các Tông đồ đã được Đức Kitô đổ tràn Thánh Thần cách đặc biệt (x. Cv 1,8; 2,4; Ga 20, 22-23), và chính các ngài lại đặt tay ban truyền ân huệ thánh thiêng này cho các cộng sự viên (x. 1Tm 4,14; 2Tm 1, 6-7).”[54] Vì thế, việc trao ban các ơn phẩm trật có thể được truy nguyên trước tiên về bí tích Truyền Chức sung mãn, được thực hiện qua việc thánh hiến Giám mục.
“Việc thánh hiến Giám mục trao ban tác vụ thánh hóa cũng như tác vụ giảng dạy và cai quản, những tác vụ mà tự bản tính chỉ có thể thực thi trong sự hiệp thông phẩm trật với vị Thủ lãnh và các thành viên của Giám mục đoàn.”[55]
“Như thế, chính Chúa Giêsu Kitô hiện diện giữa các tín hữu qua các Giám mục được các Linh mục trợ giúp (…); qua sự phục vụ cao cả của các ngài mà Đức Kitô công bố lời Thiên Chúa cho muôn dân nước và không ngừng cử hành các bí tích đức tin cho các tín hữu; qua sự chăm sóc đầy tình hiền phụ của các ngài (x. 1Cr 4,15), Đức Kitô dùng ơn tái sinh siêu nhiên để tháp nhập những chi thể mới vào Thân Thể của Người; sau cùng, qua sự khôn ngoan thận trọng của các ngài, Đức Kitô dẫn dắt và hướng dẫn Dân của Tân Ước trong cuộc lữ hành tiến về hạnh phúc muôn đời.”[56]
Truyền thống Đông Phương, gắn bó sống động với các Giáo phụ, đọc toàn bộ điều này qua ý niệm đặc trưng của họ: taxis (thứ tự). Theo thánh Basiliô Cả, hiển nhiên, thứ tự trong Giáo Hội là công trình của Chúa Thánh Thần. Cũng chính thứ tự này, vốn được liệt kê trong bảng các charisma của thánh Phaolô (x. 1Cr 12,28), “phù hợp với sự phân phát các ân huệ Thánh Linh,”[57] và đặt ơn các Tông đồ vào vị trí đầu tiên. Khởi đi từ việc thánh hiến Giám mục, người ta có thể hiểu các ơn phẩm trật khi được quy vào các cấp bậc khác nhau của bí tích Truyền Chức; tiên vàn, ơn Linh mục, là những người “được thánh hiến để rao giảng Tin Mừng, chăn dắt các tín hữu và cử hành việc phụng tự linh thánh,” đồng thời “dưới quyền Giám mục, các Linh mục là những người thánh hóa và coi sóc một phần đoàn chiên Chúa đã trao phó cho các ngài.” Đến lượt mình, các Linh mục trở nên một “gương mẫu cho đoàn chiên,” để rồi có thể “điều hành và phục vụ cộng đoàn địa phương của mình.”[58] Trong bí tích Truyền Chức, các Giám mục và Linh mục, qua việc xức dầu tư tế, “trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô Tư tế để có thể hành động với tư cách là hiện thân của Đức Kitô là Đầu.”[59] Ngoài các linh mục, còn có các Phó tế, “là những người được đặt tay ‘không phải để làm tư tế song là để phục vụ’”; “được củng cố nhờ ân sủng bí tích và trong tình hiệp thông với Giám mục và Linh mục đoàn, họ phục vụ Dân Thiên Chúa bằng các tác vụ Phụng vụ, giảng dạy, và bác ái.”[60] Tóm lại, các ơn phẩm trật tương ứng với bí tích Truyền Chức, với những cấp bậc khác nhau, được trao ban ngõ hầu trong Giáo Hội, xét như hiệp thông, mỗi tín hữu không bao giờ phải thiếu thốn món quà khách quan của ân sủng trong các bí tích, sự loan báo Tin Mừng cách quy phạm, và việc chăm sóc mục vụ.
Căn tính của các ơn charisma
15. Tuy rằng nhờ sự thực thi các ơn phẩm trật, việc trao ban ân sủng của Đức Kitô vẫn được đảm bảo cho toàn thể Dân Chúa suốt dòng lịch sử, nhưng tất cả các thành viên được mời gọi chấp nhận và đáp trả ân sủng này cách cá vị trong mỗi hoàn cảnh cụ thể của đời sống mình. Vì thế, các ơn charisma được Thánh Linh quảng đại phân phát ngõ hầu ân sủng bí tích có thể trổ sinh hoa trái nơi đời sống người Kitô hữu theo nhiều cách thức và bậc sống khác nhau. Vì những charisma này “rất thích hợp và hữu ích cho những nhu cầu của Giáo Hội,”[61] nhờ sự phong phú đa dạng của chúng, Dân Chúa có thể sống dồi dào sứ mệnh truyền giáo của mình, phân định các dấu chỉ của thời đại và giải thích chúng dưới ánh sáng của Tin Mừng.[62] Thật vậy, các ơn charisma làm cho các tín hữu có khả năng đáp lại ơn cứu độ, một cách hoàn toàn tự do và theo cách thức phù hợp với thời đại; nhờ vậy, họ trở thành quà tặng tình yêu cho những người khác và trở nên những chứng nhân đích thực cho Tin Mừng trước toàn thể nhân loại.
Việc chia sẻ các charisma
16. Trong bối cảnh này, nên nhớ rằng các charisma khác biệt nhau, không chỉ vì nét đặc biệt của chúng, mà còn vì sự lan tỏa của các ơn ấy trong tình hiệp thông của Giáo Hội. Các charisma “được ban cho riêng một cá nhân, nhưng những người khác cũng có thể chia sẻ cùng charisma đó, và như thế, qua dòng thời gian, các charisma ấy tồn tại như một di sản sinh động và quý giá, tạo nên một dòng họ thiêng liêng đặc biệt giữa các cá nhân.”[63] Mối tương quan giữa nét cá nhân của charisma và khả năng có thể được chia sẻ diễn tả một yếu tố quyết định trong tính cách năng động của nó, xét vì mối tương quan, mà trong tình hiệp thông Giáo Hội, luôn luôn liên kết cá nhân và cộng đoàn.[64] Trong thực hành, các charisma có thể sinh ra những đồng cảm, gần gũi và các họ hàng thiêng liêng, nhờ đó mà gia sản charisma, bắt nguồn từ cá nhân vị sáng lập, được chia sẻ và đào sâu, từ đó phát sinh ra các gia đình thiêng liêng đích thực. Trong những hình thức đa dạng của mình, các đoàn thể Giáo Hội xuất hiện như là những ơn charisma được chia sẻ. Các phong trào Giáo Hội và các cộng đoàn mới cho thấy rằng một charisma nguyên khởi có thể quy tụ các tín hữu và giúp họ sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu theo bậc sống của mình để phục vụ sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội. Các hình thức chia sẻ cụ thể trong lịch sử có thể rất đa dạng; vì chính lý do này, như lịch sử linh đạo cho thấy, từ một charisma nguyên khởi của vị sáng lập có thể nảy ra nhiều tổ chức khác biệt.
Việc nhìn nhận của Giáo quyền
17. Trong số các charisma, được Thánh Linh tự do phân phát, có rất nhiều ơn được đón nhận và sử dụng bởi các cá nhân trong cộng đoàn Kitô hữu mà không cần những quy tắc đặc biệt. Tuy nhiên, khi một charisma tỏ ra là một “charisma nguyên khởi” hay “charisma sáng lập,” lúc ấy cần đến một sự nhìn nhận đặc biệt ngõ hầu sự phong phú của charisma có thể phát biểu rõ ràng trong cộng đoàn Giáo Hội cũng như được chuyển trao cách trung thành qua thời gian. Ở đây xuất hiện nhiệm vụ phân định mang tính quyết định thuộc về thẩm quyền Giáo Hội.[65] Việc nhìn nhận tính chân thực của một charisma không phải lúc náo cũng dễ dàng, dầu vậy, đó vẫn là một bổn phận mà các vị mục tử phải đảm trách. Quả vậy, các tín hữu “có quyền được các mục tử thông tri về tính chân thực của các charisma và tính chất đáng tin cậy của những người đã được lãnh nhận các ơn ấy.”[66] Để được như vậy, các vị chức trách luôn phải ý thức rằng thật khó lường được các charisma do Thánh Linh gợi lên, đồng thời đánh giá các charisma dựa theo quy tắc đức tin nhằm xây dựng Giáo Hội.[67] Tiến trình này cần nhiều thời gian. Nó đòi hỏi một khoảng thời gian đủ lâu để xác nhận, phải phân định nghiêm túc cho đến khi nhìn nhận tính đích thực của các charisma. Đoàn thể xuất phát từ charisma cần phải có thời gian thích hợp để thử nghiệm và trưởng thành, vượt qua giai đoạn nhiệt huyết ban đầu cho đến khi đạt đến một hình thái ổn định. Trong suốt tiến trình xác minh đoàn thể mới mẻ, nhà chức trách trong Giáo Hội phải đồng hành cách ân cần. Sự đồng hành của vị mục tử sẽ không bao giờ thiếu, bởi vì sẽ không bao giờ thiếu tình hiền phụ của những người được gọi làm đại diện cho Chúa Kitô, vị Mục tử nhân lành, không hề ngưng đồng hành với đoàn chiên của mình.
Những tiêu chuẩn phân định các ơn charisma
18. Trong bối cảnh này, nên nhắc lại một vài tiêu chuẩn mà Huấn quyền Giáo Hội đã đặt ra trong những năm gần đây để phân định các charisma liên quan đến các đoàn thể trong Giáo Hội. Những tiêu chuẩn này có mục đích trợ giúp việc nhìn nhận tính chất đích thực của các charisma trong Giáo Hội.
a) Ưu tiên của ơn gọi nên thánh của mỗi Kitô hữu. Mỗi hiệp hội được khai sinh từ việc chia sẻ một charisma chân thực phải luôn luôn phục vụ cho sự thánh thiện trong Giáo Hội và, vì thế, phải luôn luôn phục vụ cho việc làm tăng trưởng đức ái và hướng đến tình yêu trọn hảo.[68]
b) Dấn thân vào việc loan truyền Tin Mừng. Những charisma chân thực “là những ân huệ được Chúa Thánh Linh tháp nhập vào thân thể Hội Thánh, được kéo về trung tâm là Đức Kitô và rồi được truyền vào động lực truyền giáo.”[69] Như thế, các charisma phải được đánh dấu bởi “sự hòa hợp và cộng tác vào mục đích tông đồ của Giáo Hội” và cho thấy “một lòng nhiệt huyết truyền giáo làm tăng gia những tác nhân cho cuộc tái truyền giảng Tin Mừng.”[70]
c) Tuyên xưng đức tin Công giáo. Mỗi hiệp hội mang tính charisma phải là một nơi giáo dục đức tin một cách toàn vẹn, “chấp nhận và công bố chân lý về Đức Kitô, về Giáo Hội và về con người, theo đúng huấn quyền của Giáo Hội, là cơ quan giải thích chân lý đó cách chính thức”[71]; vì lý do này, các đặc sủng phải tránh việc “lạc xa khỏi giáo lý và cộng đoàn Giáo Hội.” Thật vậy, “phàm ai không ở lại trong những điều này, người đó không được kết hiệp với Thiên Chúa và với Đức Giêsu Kitô (x. 2Ga 9).”[72]
d) Làm chứng cho sự hiệp thông thực sự với toàn thể Giáo Hội. Điều này đòi hỏi một “tình con thảo với Đức Giáo Hoàng, là trung tâm hiệp nhất vĩnh cửu và hữu hình của Giáo Hội phổ quát, và với Đức Giám mục là ‘nguyên lý hữu hình và nền tảng của sự hiệp nhất’ trong Giáo Hội địa phương.”[73] Điều này muốn nói đến một “thái độ sẵn sàng thẳng thắn đón nhận những giáo huấn về giáo lý và những chỉ dẫn mục vụ của các ngài,”[74] cũng như “sẵn sàng tham gia vào các chương trình và hoạt động của Giáo Hội trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế; dấn thân vào việc giảng dạy giáo lý và khả năng sư phạm trong việc huấn luyện các Kitô hữu.”[75]
e) Nhìn nhận và kính trọng sự bổ sung tương hỗ của các thành phần charisma khác trong Giáo Hội. Điều này dẫn đến thái độ sẵn sàng hợp tác tương trợ lẫn nhau.[76] Thật vậy: “Một dấu hiệu chắc chắn về charisma chân chính là đặc tính Giáo Hội của nó, khả năng kết hợp hài hòa của nó vào đời sống Dân thánh của Thiên Chúa, vì lợi ích mọi người. Một thực tại mới mẻ do Chúa Thánh Linh trao ban không cần làm lu mờ các ân huệ và các linh đạo khác để cho mình được khẳng định.”[77]
f) Chấp nhận những lúc thử thách trong việc phân định các charisma. Bởi vì ơn charisma có thể là “một yếu tố mang lại sự mới mẻ cho đời sống tâm linh của Giáo Hội” và thoạt tiên có thể gây nhiều rắc rối, cho nên, một tiêu chuẩn đánh giá tính chân thực của đặc sủng đó là “khiêm nhường chịu đựng nghịch cảnh: tương quan giữa charisma chân chính, sự mới mẻ và đau khổ nội tâm là một hằng số lịch sử về sự kết nối charisma và thập giá”[78] Thản hoặc có xảy ra những căng thẳng thì mọi người được yêu cầu thực thi lòng bác ái cao cả hơn, nhắm đến sự hiệp thông và hợp nhất sâu xa hơn trong Giáo hội.
g) Sự hiện diện của các hoa trái thiêng liêng, chẳng hạn bác ái, hoan lạc, bình an và nhân ái (x. Gl 5,22); khao khát “muốn sống mạnh mẽ hơn đời sống của Giáo Hội,”[79] một khao khát mạnh mẽ hơn muốn “lắng nghe và suy niệm Lời Chúa”[80]; “sự ưa thích cầu nguyện, chiêm niệm, đời sống Phụng vụ và bí tích; việc cổ động các ơn gọi hôn nhân Kitô giáo, ơn gọi linh mục thừa tác hay đời sống thánh hiến.”[81]
h) Chiều kích xã hội của việc Loan báo Tin mừng. Cũng cần nhìn nhận rằng, do sự thôi thúc của đức ái, “việc công bố Tin mừng hàm chứa một nội dung xã hội rõ rệt: ở tâm điểm của Tin Mừng là đời sống cộng đồng và sự dấn thân phục vụ tha nhân.”[82] Tiêu chuẩn phân định này, không nhất thiết chỉ dành riêng cho các hiệp hội giáo dân trong Giáo Hội, nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc trở thành “những trào lưu đẩy mạnh sự tham gia và liên đới, để kiến tạo những điều kiện sống công bằng và huynh đệ hơn giữa lòng xã hội.”[83] Về mặt này, khao khát “hiện diện như một Kitô hữu trong những môi trường khác nhau của đời sống xã hội; thành lập và linh hoạt các công tác từ thiện, văn hóa và tâm linh; tinh thần siêu thoát và thanh bần Phúc Âm để thực hiện tình bác ái đại lượng hơn với mọi người” thật quan trọng và ý nghĩa.[84] Quy chiếu về Học thuyết Xã hội của Giáo Hội cũng là một nhân tố mang tính quyết định.[85] Cách đặc biệt, “đức tin của chúng ta vào Đức Kitô, Đấng đã trở nên nghèo khó và luôn luôn gần gũi những người nghèo và những người bị hất hủi, là cơ sở cho mối quan tâm của chúng ta đối với sự phát triển toàn diện của các thành phần bị lãng quên nhất của xã hội.”[86] Điều này không thể nào thiếu trong một hiệp hội đích thực của Giáo Hội.
V. VIỆC THỰC HÀNH TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC ƠN PHẨM TRẬT VÀ CHARISMA TRONG GIÁO HỘI
19. Cuối cùng, cần phải đề cập đến vài yếu tố của việc thực hành cụ thể của Giáo Hội liên quan đến mối tương quan giữa các ơn phẩm trật và ơn charisma, được định hình nơi các đoàn thể charisma giữa lòng hiệp thông Giáo Hội.
Sự quy chiếu hỗ tương
20. Trước tiên, việc thiết lập tương quan tốt đẹp giữa những ân huệ đa dạng trong Giáo Hội đòi hỏi các thực thể charisma phải được thực sự hòa nhập vào đời sống mục vụ của Giáo Hội địa phương. Điều này bao hàm rằng các đoàn thể khác nhau phải nhìn nhận thẩm quyền của các vị mục tử trong Giáo Hội như là một thực tế nội tại của đời sống Kitô giáo; vì thế họ chân thành mong muốn được nhìn nhận, tiếp đón và thậm chí là thanh lọc, để phục vụ sứ mệnh của Giáo Hội. Mặt khác, những ai lãnh nhận ơn phẩm trật, khi thi hành công việc phân định và đồng hành với các charisma, thì phải chân thành đón nhận những gì Thánh Linh gợi lên giữa lòng hiệp thông của Giáo Hội, xem xét các ơn đó trong hoạt động mục vụ, và lượng định sự đóng góp của họ như là một nguồn nhân lực đích thực góp phần cho ích chung của tất cả mọi người.
Các ơn charisma trong Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương
21. Liên quan đến sự lan tỏa và tính đặc thù của các thực thể charisma, ta còn phải xem xét mối tương quan cơ bản và cốt yếu giữa Giáo Hội phổ quát và các Giáo Hội địa phương. Về điểm này, cần phải nhấn mạnh rằng Giáo Hội của Đức Kitô, như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính các Tông đồ, “là Giáo Hội phổ quát, tức là, một cộng đoàn các môn đệ Đức Kitô trên khắp thế giới, hiện diện và hoạt động giữa những đặc trưng cụ thể và sự đa dạng của các cá nhân, nhóm hội, không gian và thời gian.”[87] Vì vậy, chiều kích đặc thù (địa phương) nằm bên trong chiều kích phổ quát và ngược lại; quả thế, có một tương quan “nội tại hỗ tương” (mutua interiorità)[88] giữa các Giáo Hội địa phương và Giáo Hội Phổ Quát. Trong bối cảnh này, các ơn phẩm trật riêng của Đấng kế vị thánh Phêrô được thi hành bảo đảm và hỗ trợ cho sự hiện diện của Giáo Hội phổ quát trong lòng các Giáo Hội địa phương; cách tương tự, chức vụ Tông đồ của mỗi Giám mục không bị hạn chế trong địa phận riêng của các ngài nhưng được mời gọi lan rộng ra toàn thể Giáo Hội, qua tính tập đoàn xét về tâm tình và thực chất, và nhất là qua sự hiệp thông với centrum unitatis Ecclesiae (trung tâm hiệp nhất của Giáo Hội) là Giám mục Rôma. Thực vậy, Giám mục Rôma, “Đấng kế vị Phêrô, là nguyên lý và nền tảng vĩnh viễn, hữu hình của sự hợp nhất giữa các Giám mục cũng như giữa các tín hữu. Còn mỗi Giám mục là nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hợp nhất trong Giáo Hội địa phương của mình vốn được hình thành theo hình ảnh Giáo Hội phổ quát, chính nhờ và trong các Giáo Hội này mà có một Giáo Hội Công giáo duy nhất.”[89] Điều này muốn nói rằng, trong mỗi Giáo Hội địa phương, “Giáo Hội Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền của Đức Kitô thật sự hiện diện và hành động.”[90] Vì vậy, sự quy chiếu về thẩm quyền của Đấng kế vị thánh Phêrô – mối hiệp thông cum Petro et sub Petro (với Phêrô và dưới Phêrô) – là yếu tố cấu thánh của mỗi Giáo Hội địa phương.[91]
Như thế, nền móng được thiết lập cho mối tương quan giữa các ơn phẩm trật và charisma bên trong mối tương quan giữa Giáo Hội phổ quát và các Giáo Hội địa phương. Quả vậy, một mặt, các ơn charisma được ban cho toàn thể Giáo Hội; mặt khác, động lực của các ơn này chỉ có thể trở nên hiện thực trong việc phục vụ một địa phận cụ thể nào đó, vốn là “một phần của đoàn Dân Thiên Chúa được giao phó cho một Giám mục chăn dắt, với sự trợ giúp của Linh mục đoàn.”[92] Cuối cùng, có lẽ sẽ hữu ích khi nhớ đến trường hợp của Đời sống Thánh hiến; đây không phải là một thực tại nằm ngoài hay độc lập với đời sống của Giáo Hội địa phương; đúng hơn, Đời sống Thánh hiến đóng góp một cách thế hiện hữu đặc biệt giữa lòng Giáo Hội địa phương, nhờ mang tính triệt để của Tin Mừng cùng với những ơn đặc biệt riêng của đời sống ấy. Định chế truyền thống về sự “miễn trừ” được ban cho nhiều Hội Dòng Tận Hiến,[93] không ngụ ý một loại hình trừu tượng vượt lên trên mọi địa phương, cũng không phải là một sự tự trị bị hiểu sai; đúng hơn, định chế ấy ám chỉ một tương tác thâm sâu hơn giữa chiều kích phổ quát và chiều kích địa phương của Giáo Hội.[94] Cách tương tự, những thực thể charisma mới, khi được mang đặc tính siêu-giáo-phận, thì đừng tự xem mình là tự trị và độc lập hoàn toàn với Giáo Hội địa phương; đúng hơn, họ phải làm phong phú và phục vụ Giáo Hội địa phương cách chính xác nhờ những đặc trưng của mình được chia sẻ vượt lên biên cương của một Giáo phận riêng lẻ.
Các ơn charisma và các bậc sống của Kitô hữu
22. Các ơn charisma do Thánh Linh phú ban có thể được liên kết với toàn thể trật tự hiệp thông của Giáo Hội, cả với việc quy chiếu đến các bí tích lẫn quy chiếu đến Lời Chúa. Các ơn này, tùy theo những nét khác biệt của chúng, có thể trổ sinh hoa trái dồi dào khi kiện toàn những bổn phận phát sinh từ bí tích Rửa Tội, Thêm Sức, Hôn Phối và Truyền Chức. Các ơn ấy cũng giúp ta có được cách hiểu thiêng liêng ý nghĩa hơn về Truyền Thống Tông Đồ, bên cạnh những nghiên cứu thần học và giảng dạy của những người được nhận lãnh charisma veritatis certum (đoàn sủng về chân lý cách chắc chắn),[95] có thể được đào sâu bởi những người có được “sự thông hiểu về những cảm nghiệm tâm linh.”[96] Trong bối cảnh này, sẽ hữu ích khi liệt kê những câu hỏi nền tảng liên quan đến mối tương quan giữa các charisma và các bậc sống khác nhau, chú ý đặc biệt đến chức tư tế cộng đồng của Dân Chúa và chức tư tế phẩm trật hay thừa tác, “dù khác nhau về yếu tính chứ không phải chỉ về cấp bậc, nhưng cả hai đều được đặt định tương quan với nhau; thật vậy, theo cách thức riêng của mình, mỗi bên đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Đức Kitô.”[97] Thật vậy, đó là “hai thể thức tham dự vào cùng một chức tư tế của Đức Kitô, trong đó cả hai hai chiều kích kết hiệp trong một hành động cao cả nhất là hy tế Thập giá.”[98]
a) Thứ nhất, cần phải nhìn nhận điều tốt nơi các charisma khác nhau làm phát sinh các đoàn thể Giáo hội nơi các tín hữu, được mời gọi làm trổ sinh hoa trái của ân sủng bí tích, dưới sự dẫn dắt của các vị mục tử hợp pháp. Các đoàn thể này tượng trưng cho một cơ hội chân chính để các tín hữu có thể sống và phát triển ơn gọi Kitô hữu đúng đắn của mình.[99] Các ơn charisma giúp cho các tín hữu sống chức vụ tư tế cộng đồng của Dân Chúa trong cuộc sống thường nhật: như “những môn đệ Đức Kitô, trong khi kiên tâm cầu nguyện và cùng nhau ca tụng Thiên Chúa (x. Cv 2, 42-47), phải chứng tỏ mình là của lễ sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12,1). Khắp nơi trên trần thế, họ phải làm chứng về Đức Kitô và trả lời cho những người chất vấn họ về niềm hy vọng cuộc sống vĩnh cửu (x. 1Pr 3,15).”[100] Trong hướng này ta cũng có thể xếp những đoàn thể có ý nghĩa đặc biệt với đời sống hôn nhân Kitô giáo, và “nỗ lực trên bình diện lý thuyết cũng như trong hành động để nâng đỡ các thiếu niên và các đôi vợ chồng, nhất là những người mới kết hôn, đồng thời huấn luyện cho họ về đời sống gia đình, xã hội và việc tông đồ.”[101]
b) Các thừa tác viên có chức thánh, qua việc tham gia vào một thực thể charisma, có thể tìm thấy không chỉ một lời nhắc nhở về ý nghĩa Phép Rửa mà họ lãnh nhận mà nhờ đó họ trở nên con cái Thiên Chúa, mà còn tìm thấy sứ mệnh và ơn gọi riêng của mình nữa. Một thành viên có chức thánh gia nhập một đoàn thể nào đó sẽ có thể tìm thấy sự trợ giúp để có thể sống cách sâu sắc những đòi hỏi trong tác vụ đặc biệt của mình, cả trong tương quan với toàn thể Dân Chúa, cách đặc biệt đoàn dân được trao phó cho mình, lẫn trong tương quan tuân phục cách chân thành với Đấng Bản Quyền sở tại.[102] Có thể nói cách tương tự với trường hợp các ứng sinh Linh mục xuất phát từ một đoàn thể Giáo Hội, như được khẳng định trong Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Giám mục Pastores Dabo Vobis[103]; một tương quan như vậy cũng được biểu thị qua một việc chủ động vâng theo triến trình đào tạo, làm phong phú nó bằng charisma liên hệ. Cuối cùng, sự trợ giúp mục vụ mà một Linh mục mang đến cho một phong trào Giáo Hội, phụ thuộc về những đặc nét tương ứng của phong trào đó, phải luôn tương hợp với chính thể được thấy trước trong tình hiệp thông Giáo Hội nơi các Chức Thánh khi được gắn kết với việc nhập tịch[104] và việc tuân phục Đấng Bản Quyền.[105]
c) Sự đóng góp của một charisma cho chức tư tế cộng đồng và chức tư tế thừa tác được minh họa bởi Đời sống Thánh hiến; hiểu theo đúng nghĩa thì đời sống ấy được đặt trong chiều kích charisma của Giáo Hội.[106] Charisma này, biểu lộ một “sự đồng hình đồng dạng với Đức Kitô khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục”[107] như một nếp sống vững bền[108] nhờ việc tuyên khấn các lời khuyên Tin Mừng, được phú ban hầu mang đến cho người sống đời thánh hiến “khả năng thu nhận được nhiều hoa trái phong phú hơn nữa từ bí tích Rửa Tội.”[109] Linh đạo của các Hội Dòng Tận Hiến có thể mang đến một nguồn mạch đầy ý nghĩa cho cả người giáo dân lẫn các Linh mục, giúp họ có thể sống ơn gọi riêng của mình. Hơn nữa, không hiếm khi, các thành viên của một Hội Dòng Tận hiến, với sự đồng ý của bề trên của mình,[110] có thể tìm thấy trong mối tương quan với các đoàn thể mới một trợ giúp quan trọng để sống ơn gọi riêng, và đến lượt mình, họ trao ban “lời chứng trung thành, hoan lạc và có tính cách charisma của đời sống thánh hiến,”[111] từ đó mang lại một sự phong phú hỗ tương.
d) Cuối cùng, thật ý nghĩa khi Huấn quyền khuyến khích các thừa tác viên có chức thánh hãy giữ tinh thần của các lời khuyên Tin mừng.[112] Thậm chí việc độc thân, là điều đòi buộc với các Linh mục thuộc truyền thống Latinh cổ kính,[113] rõ ràng cũng được xếp vào ơn charisma; sự độc thân tiên vàn không phải là điều thuộc về chức năng; đúng hơn, nó “biểu thị một cách thức đặc biệt nên đồng hình đồng dạng với lối sống của Đức Kitô,”[114] qua đó thể hiện cuộc hiến dâng bản thân cho sứ mệnh truyền giáo được hàm ngụ nơi bí tích Truyền Chức.[115]
Các hình thức nhìn nhận của Giáo Hội
23. Mục đích của văn kiện này là làm sáng tỏ vị trí Thần học và Giáo Hội học của các đoàn thể mới trong Giáo Hội trong ánh sáng của mối tương quan giữa các ơn phẩm trật và charisma, ngõ hầu góp phần vào việc xác định những phương thức thích hợp cho việc Giáo hội nhìn nhận các đoàn thể ấy. Bộ Giáo Luật hiện hành dự liệu các hình thức pháp lý khác nhau để nhìn nhận các thực thể Giáo Hội mới liên quan đến các ơn charisma. Những hình thức này phải được nghiên cứu kỹ lưỡng,[116] để tránh những sự kiện thiếu cân nhắc hoặc những nguyên tắc nền tảng của luật pháp hoặc bản chất và tính đặc thù của các thực thể charisma đa dạng.
Từ quan điểm của mối tương quan giữa các ơn phẩm trật và charisma, cần phải tôn trọng hai tiêu chuẩn nền tảng vốn phải xem là bất khả phân ly: a) tôn trọng khía cạnh đặc thù của charisma của mỗi đoàn thể, tránh những gò bó pháp lý làm bóp chẹt sự mới mẻ của cảm nghiệm đặc thù. Nhờ thế, người ta tránh được nguy cơ xem tính đa dạng của các charisma chỉ là nguyên liệu bình thường trong Giáo Hội; b) tôn trọng cơ chế nền tảng của Giáo Hội, nhằm hỗ trợ để cho các ơn charisma được hội nhập hữu hiệu vào đời sống của cả Giáo Hội phổ quát lẫn Giáo Hội địa phương, nhờ vậy tránh cho các thực thể charisma không quan niệm rằng mình là một hình thức song song với đời sống Giáo Hội và không có liên quan gì đến các ơn phẩm trật.
KẾT LUẬN
24. Đang khi chờ đợi Thánh Linh được tuôn đổ, các môn đệ tiên khởi đã siêng năng và kết hiệp trong lời cầu nguyện cùng với Đức Maria, thân mẫu của Đức Giêsu (x. Cv 1,14). Mẹ là mẫu gương toàn hảo của việc đón nhận và phát triển phong phú những ân sủng độc đáo mà Ba Ngôi chí thánh đã trang bị dạt dào cho Mẹ: ơn quan trọng nhất là được làm Mẹ Thiên Chúa. Tất cả con cái Giáo Hội có thể ngưỡng mộ thái độ ngoan ngùy của Mẹ đối với tác động của Thánh Linh: sự ngoan ngùy trong đức tin không lay chuyển và trong đức khiêm tốn tinh tuyền. Như vậy, Đức Maria chứng tỏ việc đón nhận mọi ân huệ của Thánh Linh trong sự vâng phục và trung tín. Hơn thế nữa, như công đồng Vaticano II đã dạy, Đức Trinh nữ Maria, do lòng từ mẫu, “ngài chăm sóc những người em của Con ngài còn đang lữ hành giữa bao nguy hiểm và thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời.”[117] Vì Mẹ đã “để mình được Thánh Linh hướng dẫn trong hành trình đức tin hướng tới sứ mạng phục vụ và sinh hoa kết quả. Ngày nay chúng ta hướng về Mẹ và xin Mẹ giúp chúng ta loan báo sứ điệp cứu độ cho mọi người và giúp những người mới trở thành môn đệ đến lượt họ cũng trở thành những người loan báo Tin Mừng.”[118] Vì lý do này, Đức Maria được nhìn nhận là Mẹ của Giáo Hội và với hết lòng tin tưởng, chúng ta trông cậy vào Mẹ, ngõ hầu, qua sự trợ giúp hữu hiệu và lời chuyển cầu đắc lực của Mẹ, các charisma do Thánh Linh phân phát dồi dào cho các tín hữu cũng có thể được lãnh nhận với sự ngoan ngoãn và trổ sinh hoa trái cho đời sống cũng như sứ mệnh của Giáo Hội và vì ích lợi của toàn thế giới.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong buổi tiếp kiến ngày 14 tháng 03 năm 2016 dành cho Hồng y Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, đã phê chuẩn bức thư này, được thông qua trong Phiên họp khoáng đại của Bộ, và truyền lệnh ban hành.
Rôma, Bộ Giáo lý Đức tin, 15/03/2016
Đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống.
Hồng y Gerhard Muller
Bộ trưởng
+ Luis F. Ladaria, S.I.
Tổng giám mục hiệu tòa Thibica
Tổng thư ký
____________
[1] Vaticano II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 4.
[2] T. Gioan Kim Khẩu, Bài giảng về Lễ Ngũ Tuần, II, 1: PG 50, 464.
[3] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 49: AAS 105 (2013), 1040.
[4] Xc. Ibid., 20-24: AAS 105 (2013), 1028-1029.
[5] Xc. Ibid., 14: AAS 105 (2013), 1025.
[6] Xc. Ibid., 25: AAS 105 (2013), 1030.
[7] Vaticano II, Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, 19.
[8] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Evagelii Gaudium, 14: AAS 105 (2013), 1026; Xc. ĐGH Bênêđictô XVI, Bài giảng Thánh Lễ Khai Mạc Hội Nghị Khoáng Đại Lần Thứ V của các Giám Mục Châu Mỹ Latinh và Caribê (13/05/2007), Aparecida, Brazil: AAS 99 (2007), 437.
[9] ĐGH Gioan Phaolô II, Diễn từ dành cho những người thuộc về Các Phong Trào và Cộng Đoàn Giáo Hội Mới trong ngày lễ Vọng Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (30/05/1998), 7: Insegnamenti 21/1 (1998), 1123.
[10] Ibid., 6: Insegnamenti 21/1 (1998), 1122.
[11] Ibid., 8: Insegnamenti 21/1 (1998), 1124.
[12] “Có nhiều charísmata khác nhau” (1Cr 12,4); “Chúng ta có những charísmata khác nhau” (Rm 12,6); “mỗi người được Thiên Chúa ban cho chárisma, kẻ thế này, người thế khác” (1Cr 7,7).
[13] Trong tiếng Hy Lạp, hai từ chárisma và charis có cùng một gốc.
[14] X. Origen, De principiis, I, 3, 7: PG 11, 153: “Những gì được gọi là ân huệ Thánh Thần thì được thông chuyển nhờ công trình cứu độ của Con và được tác thành nhờ công trình của Cha”.
[15] T. Basiliô Xêdarê, Regulae fusius Tractae, 7, 2: PG 31, 933-934.
[16] “Kẻ nói tiếng lạ thì tự xây dựng chính mình; người nói ngôn sứ thì xây dựng Hội Thánh” (1Cr 14,4). Thánh Phaolô không khinh thường ơn ngôn ngữ, một charisma cầu nguyện hữu ích cho mối tương quan giữa cá nhân với Thiên Chúa, và ngài nhận thấy đó là một charisma đích thực, dẫu không trực tiếp mang đến ích lợi cho cộng đoàn: “Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì tôi nói các tiếng lạ nhiều hơn tất cả anh em, nhưng trong cộng đoàn, thà tôi nói năm ba tiếng có thể hiểu được để dạy dỗ kẻ khác, còn hơn là nói hàng vạn lời bằng tiếng lạ” (1Cr 14, 18-19).
[17] X. 1Cr 12,28: “Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những charisma để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ.”
[18] Trong các buổi hội họp cộng đoàn, sự thừa thãi các biểu lộ charisma có thể gây nên những phiền toái, tạo ra bầu khí ganh tị, mất trật tự và hỗn loạn. Các Kitô hữu ít được ban ơn hơn có nguy cơ gia tăng mặc cảm tự ti (x. 1Cr 12,15-16); trong khi các Kitô hữu được ơn charisma lớn lao có thể bị cám dỗ ra vẻ kiêu hãnh và ngạo mạn.
[19] Thánh Phaolô chỉ thị rằng, nếu trong buổi hội họp không có ai có khả năng giải thích những từ ngữ bí nhiệm của người được ơn nói tiếng lạ, thì người có ơn ấy hãy giữ thinh lặng. Nếu có một người giải thích, thánh Phaolô cho phép hai, hoặc nhiều nhất là ba người có thể nói tiếng lạ (x. 1Cr 14, 27-28).
[20] Thánh Phaolô không chấp nhận ý tưởng về một cảm hứng ngôn sứ không thể kìm hãm; ngược lại, ngài khẳng định rằng: “Ngôn sứ thì làm chủ những cảm hứng tiên tri của mình, bởi vì Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa gây hỗn loạn, nhưng là Thiên Chúa tạo bình an. Như thói quen trong mọi cộng đoàn dân thánh…” (1Cr 14, 32-33). Ngài khẳng định rằng: “Nếu ai tưởng mình là ngôn sứ hoặc được Thần Khí linh hứng, thì hãy nhìn nhận rằng các điều tôi viết đây là mệnh lệnh của Chúa. Ai không nhận biết điều ấy, thì cũng không được Chúa biết đến” (1Cr 14, 37-38). Tuy nhiên, thánh nhân kết luận cách lạc quan bằng việc mời gọi họ khao khát ơn ngôn sứ và đừng ngăn cấm nói các tiếng lạ. (x. 1Cr 14,39).
[21] ĐGH Piô XII, Thông điệp Mystici Corporis (29/06/1943): AAS 35 (1943), 206-230.
[22] X. Vaticano II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 4, 7, 11, 12, 25, 30, 50 ; Hiến chế tín lý Dei Verbum, 8; Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, 3, 4, 30; Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, 4, 9.
[23] Id., Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 4.
[24] Ibid., 12.
[25] X. Vaticano II, Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, 3: “Để việc tông đồ được thực thi hữu hiệu, Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa Dân Chúa qua thừa tác vụ và các bí tích, thông ban cho các tín hữu những ơn đặc biệt (x. 1Cr 12,7), ‘phân chia cho mỗi người tùy theo ý Ngài muốn’ (1Cr 12,11) ngõ hầu ‘mỗi người tùy theo ơn đã lãnh nhận mà phục vụ kẻ khác’ và trở nên ‘những người khéo léo quản lý các ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa’ (1Pr 4,10), để xây dựng toàn thân trong đức ái (x. Ep 4,16).”
[26] Ibid.
[27] X. Vaticano II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 12: “Những vị lãnh đạo trong Giáo Hội có trách nhiệm đặc biệt phải phân định về tính cách xác thực và phương thức sử dụng thích đáng những ân huệ này, đó không có nghĩa là dập tắt Thần Khí, nhưng cân nhắc mọi sự để giữ lại những điều tốt lành (x. 1Ts 5,12.19-21).” Mặc dù điều này lập tức chỉ đến việc phân định các ơn huệ khác thường, nhưng có thể áp dụng cách loại suy cho các charisma nói chung.
[28] X. chẳng hạn ĐGH Phaolô VI, Tông huấn Evangelii nuntiandi (08/12/1975), 58: AAS 68 (1976), 46-49 ; Bộ Tu sĩ, Giáo sĩ và Giám mục, Chỉ nam Mutuae relationes (14/05/1978), AAS 70 (1978), 473-506 ; Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles Laici (30/12/1988): AAS 81 (1989), 393-521 ; Tông huấn Vita Consecrata (25/03/1996): AAS 88 (1996), 377-486.
[29] Khẳng định của văn kiện Mutuae relationes được đề cập trên đây là điển hình. Đoạn 34 nhấn mạnh rằng: “Sẽ là một sai lầm nghiêm trọng nếu ta phân biệt đời sống tu trì và các cơ cấu Giáo Hội thành hai thực thể độc lập, tệ hơn nữa là đối chọi hai thực thể đó, tựa hồ chúng có khả năng tự hữu như hai thực thể xa cách, một có tính charisma và một có tính thể chế. Cả hai yếu tố này, tức là các ân huệ thiêng liêng và các cơ cấu Giáo Hội, dù phức hợp, nhưng tạo nên một thực thể duy nhất.”
[30] T. Gioan Phaolô II, Sứ điệp gởi cho các tham dự viên trong Hội nghị thế giới về các Phong trào Giáo Hội do Hội đồng Giáo Hoàng về Giáo dân cổ võ (27/05/1998), 5: Insegnamenti 21/01 (1998), 1065 ; x. Id., Sứ điệp gửi các phong trào Giáo Hội tham dự Hội nghị quốc tế lần thứ haii (02/03/1987): Insegnamenti 10/01 (1987), 476-479.
[31] ĐGH Bênêđictô XVI, Diễn từ cho những người tham dự cuộc hành hương do huynh đoàn Hiệp Thông và Giải Phóng tổ chức (24/03/2007): Insegnamenti 03/01 (2007), 558.
[32] “Trong Giáo Hội, việc cùng đồng hành với nhau dưới sự hướng dẫn của các vị mục tử, là những người được nhận lãnh charisma và tác vụ đặc biệt, là dấu hiệu của Thánh Linh đang hoạt động. Có được một cảm thức về Giáo Hội là một đặc tính nền tảng với mỗi Kitô hữu, mỗi cộng đoàn và mỗi phong trào”; ĐGH Phanxicô, Bài giảng đại lễ Hiện Xuống dành cho các Hiệp hội và đoàn thể giáo dân (19/05/2013): Insegnamenti 01 (2013), 208.
[33] Id., Tiếp kiến chung (01/10/2014): L’Osservatore Romano (02/10/2014), 8.
[34] X. Ga 7,39 ; 14,26 ; 15,26 ; 20,22.
[35] X. Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn Dominus Iesus (06/08/2000), 9-12: AAS 92 (2000), 749-754.
[36] T. Irênê Lyon, Adversus haereses, IV, 7, 4: PG 7, 992-993 ; V, 1, 3: PG 7, 1123 ; V, 6, 1: PG 7, 1137 ; V, 28, 4: PG 7, 1200.
[37] X. Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn Dominus Iesus, 12: AAS 92 (2000), 752-754.
[38] X. T. Gioan Phaolô II, Thông điệp Dominum et Vivificantem (18/05/1986), 50: AAS 78 (1986), 896-870 ; Giáo lý Hội Thánh Công giáo, 727-730.
[39] ĐGH Bênêđictô XVI, Tông huấn Sacramentum Caritatis (20/02/2007), 12: AAS 99 (2007), 114.
[40] X. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, 1104-1007.
[41] T. Gioan Phaolô II, Diễn từ dành cho những hội viên các Phong trào Giáo Hội và các Cộng đoàn mới ngày lễ Vọng Chúa Thánh Thần hiện xuống (30/05/1998), 7: Insegnamenti 21/01 (1998) 1123.
[42] T. Éphrem Siria, Các bài thánh thi đức tin, 10, 12: CSCO 154, 50.
[43] T. Cyprianô thành Carthage, De oratione dominica, 23: PL 4, 553 ; x. Vaticano II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 4.
[44] Vaticano II, Sắc lệnh Unitatis Redintegratio, 2.
[45] X. Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn Dominus Iesus, 16: AAS 92 (2000), 757: “Sự trọn vẹn của mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô cũng thuộc về Giáo Hội, vốn được hiệp nhất bất khả phân ly với Đức Kitô.”
[46] ĐGH Phaolô VI, Catechesis (08/06/1966): Insegnamenti 4 (1966), 794.
[47] Vaticano II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 1.
[48] Khóa họp ngoại thường lần thứ hai của Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, Ecclesia sub Verbo mysteria Christi celebrans pro salute mundi. Relatio finalis (07/12/1985), II, C, 1: Enchiridion Vaticanum, 9, 1800 ; x. Bộ Giáo lý Đức tin, thư Communis Notio (28/05/1992), 4-5: AAS 85 (1993), 839-841.
[49] X. ĐGH Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini (30/12/2010), 54: AAS 102 (2010), 733-734 ; ĐGH Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium, 174: AAS 105 (2013), 1092-1093.
[50] X. T. Basiliô Cêsarê, De Spiritu Sancto, 26: PG 32, 181.
[51] J.H. Newman, Tập bài giảng các chủ đề theo ngày, London 1869, 132.
[52] X. Một lời khẳng định khuôn mẫu liên quan đến Đời sống Thánh hiến của T. Gioan Phaolô II, Catechesis (28/09/1994), 5: Insegnamenti 17/02 (1994), 404-405.
[53] Vaticano II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7.
[54] Ibid., 21.
[55] Ibid.
[56] Ibid.
[57] T. Basiliô Cêsarê, De Spiritu Sancto, 16, 38: PG 32, 137.
[58] Vaticano II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 28.
[59] Id., Sắc lệnh Presybyterium Ordinis, 2.
[60] Id., Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 29.
[61] Ibid., 12.
[62] Vaticano II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 4, 11.
[63] T. Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles Laici, 24: AAS 81 (1989), 434.
[64] X. Ibid., 29: AAS 81 (1989), 443-446.
[65] Vaticano II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 12.
[66] T. Gioan Phaolô II, Catechesis (09/03/1994), 6: Insegnamenti 17/01 (1994), 641.
[67] X. GLHTCG, 799f ; Bộ Tu Sĩ – Bộ Giám mục, Chỉ nam Mutuae Relationes, 51: AAS 70 (1978), 499-500 ; T. Gioan Phaolô II, Tông huấn Vita Consecrata, 48: AAS 88 (1996), 421-422 ; Id., Catechesis (24/06/1992), 6: Insegnamenti 15/01 (1992), 1935-1936.
[68] X. Vaticano II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 39-42 ; T. Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 446.
[69] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium, 130: AAS 105 (2013), 1074.
[70] T. Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 447; x. ĐGH Phaolô VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi, 58: AAS 68 (1976), 49.
[71] T. Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles Laici, 24: AAS 81 (1989), 446-447.
[72] ĐGH Phanxicô, Bài giảng đại lễ Hiện Xuống (19/05/2013), Insegnamenti 1 (2013), 208.
[73] T. Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 447; x. Phaolô VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi, 58: AAS 68 (1976), 48.
[74] T. Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 447.
[75] Ibid., AAS 81 (1989), 448.
[76] X. Ibid., AAS 81 (1989), 447.
[77] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium, 130: AAS 105 (2013), 1074-1075.
[78] Bộ Tu Sĩ – Bộ Giám mục, Chỉ nam Mutuae Relationes, 12: AAS 70 (1978), 480-481 ; x. T. Gioan Phaolô II, Diễn từ dành cho những người thuộc về Các Phong Trào và Cộng Đoàn Giáo Hội Mới trong ngày lễ Vọng Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (30/05/1998), 6: Insegnamenti 21/1 (1998), 1122.
[79] ĐGH Phaolô VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi, 58: AAS 68 (1976), 48.
[80] Ibid.; x. ĐGH Phanxicô, Tông huấn Evagelii Gaudium, 174-175: AAS 105 (2013), 1092-1093.
[81] T. Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 448.
[82] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium, 177: AAS 105 (2013), 1094.
[83] T. Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 448.
[84] Ibid.
[85] X. ĐGH Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium, 184, 221: AAS 105 (2013), 1097, 1110-1111.
[86] Ibid., 186: AAS 105 (2013), 1098.
[87] Bộ Giáo lý Đức tin, Thư Communionis Notio, 7: AAS 85 (1993), 842.
[88] Ibid., 9: AAS 85 (1993), 843.
[89] Vaticano II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 23.
[90] Id., Sắc lệnh Christus Dominus, 11.
[91] X. Ibid., 2 ; Bộ Giáo lý Đức tin, Thư Communionis Notio, 13-14, 16: AAS 85 (1993), 846-848.
[92] Vaticano II, Sắc lệnh Christus Dominus, 11.
[93] X. Ibid., 35 ; CIC, canon 591 ; CCEO, canon 412, §2: Bộ Tu sĩ – Bộ Giám mục, Chỉ nam Mutuae Relationes, 22: AAS 70 (1978), 487.
[94] X. Bộ Giáo lý Đức tin, Thư Communionis Notio, 15: AAS 85 (1993), 847.
[95] X. Vaticano II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 8 ; GLHTCG, 888-892.
[96] Vaticano II, Hiến chế tín lý tín lý Dei Verbum, 8.
[97] Id., Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 10.
[98] T. Gioan Phaolô II, Tông huấn Pastores Gregis (16/10/2003), 10: AAS 96 (2004), 838.
[99] X. Id., Tông huấn Christifideles Laici, 29: AAS 81 (1989), 443-446.
[100] Vaticano II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 10.
[101] Id., Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 52 ; x. T. Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio (22/11/1981), 72: AAS 74 (1982), 169-170.
[102] X. T. Gioan Phaolô II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis (25/03/1992), 68: AAS 84 (1992), 777.
[103] X. Ibid., 31, 68: AAS 84 (1992), 708-709, 775-777.
[104] X. CIC, canon 265 ; CCEO, canon 357, §1.
[105] X. CIC, canon 273 ; CCEO, canon 370.
[106] Bộ Tu Sĩ – Bộ Giám mục, Chỉ nam Mutuae Relationes, 19, 34: AAS 70 (1978), 485-486, 493.
[107] T. Gioan Phaolô II, Tông huấn Vita Consecrata, 31: AAS 88 (1996), 404-405.
[108] X. Vaticano II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 43.
[109] Ibid., 44 ; Sắc lệnh Perfectae Caritatis, 5 ; T. Gioan Phaolô II, Tông huấn Vita Consecrata, 14, 30: AAS 88 (1996), 387-388, 403-404.
[110] X. CIC, canon 307, §3 ; CCEO, canon 578, §3.
[111] Bộ các Hội dòng thánh hiến và Tu đoàn tông đồ, Huấn thị Ripartire Da Cristo (19/05/2002), 30: Enchiridion Vatcanum, 21, 472.
[112] X. T. Gioan Phaolô II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis (25/03/1992), 27-30: AAS 84 (1992), 700-707.
[113] X. ĐGH Phaolô VI, Thông điệp Sacerdotalis Caelibatus (24/06/1967): AAS 59 (1967), 657-697.
[114] ĐGH Bênêđictô XVI, Tông huấn Sacramentum Caritatis, 24: AAS 99 (2007), 124.
[115] X. T. Gioan Phaolô II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis (25/03/1992), 29: AAS 84 (1992), 703-705 ; Vaticano II, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, 16..
[116] Hình thức pháp lý đơn giản nhất cho việc nhìn nhận các thực thể Giáo Hội mang tính charisma là hình thức của một hiệp hội tư của các tín hữu (x. CIC, canon 432-436 ; CCEO, canons 573, §2-538). Dầu vậy, cũng cần xem xét những hình thức pháp lý khác, với những đặc nét cụ thể tương ứng, ví dụ các hiệp hội công của các tín hữu (x. CIC, canons 573-730 ; CCEO, canons 573, §1-583), các hiệp hội của các tín hữu giáo sĩ (x. CIC, canon 302), các Hội dòng Tận hiến (x. CIC, canons 573-730 ; CCEO, canons 410-571), các Tu đoàn Tông đồ (x. CIC, canons 731-746 ; CCEO, canon 572) và các Phủ Giám chức Tòng nhân (x. CIC, canons 294-297).
[117] Vaticano II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 62.
[118] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium, 287: AAS 105 (2013), 1136.