Thời sự Thần học – Số 13 – Tháng 9/1998, tr. 27-39
Tấn Anh
Yêu thương (Lê Thừa Khiên) |
Bao dung (Tolerance), thực khó mà lột được hết ý nghĩa của từ này. Các từ điển Anh Pháp Việt thường liệt kê những từ tương đương như sau : sự chấp nhận, dung nạp, khoan dung, dung thứ, chịu đựng. Có lẽ tiếng cuối cùng này sát với nguyên ngữ hơn cả. "Tolerare" trong tiếng latinh có nghĩa là chịu đựng, chấp nhận một sự dữ không thể tránh được, thái độ nhắm mắt làm ngơ hoặc cắn răng ngậm miệng. Thần học công giáo dùng tiếng “tolerantia" trong lãnh vực tôn giáo (tolerantia religiosa), để nói tới việc nhà cầm quyền phải chấp nhận các tôn giáo khác với quốc giáo. Một văn kiện của công đồng đã gây nhiều sóng gió hơn cả là Tuyên ngôn về Tự do Tín ngưỡng. Thường thì các văn kiện được chấp thuận sau hai hay ba dự thảo là cùng; nhưng văn kiện về Tự do Tín ngưỡng đã phải sửa đi sửa lại tới 6 lược đồ, và trong lần biểu quyết chót, số phiếu chống cũng còn khá cao (1954 thuận, 149 chống, 13 vô hiệu). Tại sao văn kiện gặp nhiều trở ngại như vậy ?
Để hiểu những khúc mắc của những cuộc tranh luận, cần phải đi ngược lại dòng lịch sử, để ôn lại những quan niệm khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau, chung quanh vấn đề Tự do tín ngưỡng. Dù sao có lẽ trang sử mà công đồng muốn lật qua đó là cần phải chuyển não trạng từ chỗ "tolerantia religiosa" (thái độ chấp nhận chịu đựng, có tính cách tiêu cực) sang chỗ "libertas religiosa" (tự do tín ngưỡng, một quyền lợi tích cực). Chúng ta cùng lượt qua lịch sử của vấn đề “tự do tín ngưỡng”.
Để hiểu những khúc mắc của những cuộc tranh luận, cần phải đi ngược lại dòng lịch sử, để ôn lại những quan niệm khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau, chung quanh vấn đề Tự do tín ngưỡng. Dù sao có lẽ trang sử mà công đồng muốn lật qua đó là cần phải chuyển não trạng từ chỗ "tolerantia religiosa" (thái độ chấp nhận chịu đựng, có tính cách tiêu cực) sang chỗ "libertas religiosa" (tự do tín ngưỡng, một quyền lợi tích cực). Chúng ta cùng lượt qua lịch sử của vấn đề “tự do tín ngưỡng”.
A. LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỀ TỰ DO TÍN NGƯỠNG
Bài này không có ý trình bày lịch sử của vấn đề tự do tín ngưỡng kể từ khi con người xuất hiện trên mặt địa cầu cho tới nay, chỉ ghi nhận sơ qua một vài nhận xét, cách riêng kể từ khi Kitô giáo ra đời.
Vào thời cổ, thường mỗi bộ lạc, mỗi dân tộc theo một tín ngưỡng riêng; và tín ngưỡng ấy cũng tạo nên căn tính của cộng đoàn đó. Thí dụ ngay tại nước Việt Nam : mặc dù người ta nói tới sự hiện diện của Tam giáo (Nho, Lão, Phật), nhưng mà đơn vị tế tự vẫn là gia đình, làng xã hay là nước (thí dụ các lễ cúng gia tiên trong họ tộc, các hương lễ ở đình, và tế Nam Giao tại kinh đô). Do đó, ai không tham gia vào những buổi tế tự đó thì đương nhiên là bị khai trừ khỏi gia đình, làng nước. Điều này cũng xảy ra cho Israel trong Cựu ước, khi tôn giáo gắn liền với dân tộc và chính trị. Sự thay đổi tôn giáo không những chỉ mang tội "bội giáo" mà còn bị lên án là "phản quốc" nữa.
Vấn đề tự do tôn giáo được nêu lên với sự xuất hiện của Kitô giáo, một tôn giáo muốn thoát khỏi sự ràng buộc với một dân tộc hay quốc gia, bởi vì muốn lan rộng khắp cả nhân loại. Vì vậy mà các tín đồ Kitô giáo nhiều lần đã phải gặp phải sự chống đối của chính quyền, và không thiếu lần ngay từ trong gia đình của mình. Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng ngần ngại thú nhận rằng trải qua lịch sử, không phải lúc nào các kitô hữu cũng tỏ ra thái độ bao dung với các tôn giáo khác. Chúng ta hãy rảo qua ba giai đoạn chính : những thế kỷ đầu; thời trung cổ; thời cận đại.
I. Những thế kỷ đầu
1. Ai ai cũng biết rằng Kitô giáo đã bị Đế quốc Rôma bách hại trong suốt ba thế kỷ đầu tiên của lịch sử. Tại lý do gì ? Điều chắc chắn là không phải vì Đế quốc Rôma độc tài hay độc tôn ! Không, đế quốc Rôma rất bao dung : ai muốn thờ thần nào cũng được. Ngay tại Rôma, có đền Panthéon kính hết tất cả các thần của các dân thuộc địa. Có thể nói tới hai lý do chính khiến nhà cầm quyền Rôma lên án các kitô hữu :
- Thái độ ngạo mạn của họ : họ coi mình là đạo thật, và chỉ trích các người khác là tà đạo hoặc vô luân;
- Họ khước từ không chịu tham gia vào các lễ nghi tế tự hoàng đế.
Lý do thứ hai quan trọng hơn. Thực vậy, trong đế quốc Rôma, ai muốn thờ thần nào cũng được, và do đó không ai cấm các tôn giáo chê bai lẫn nhau. Tuy nhiên, đến khi phải thờ Hoàng đế thì không ai được phép vắng mặt : bởi vì Hoàng đế tượng trưng cho chủ quyền quốc gia. Người Kitô giáo bị tố cáo là vô thần bởi vì họ không tham gia vào nghi lễ tế tự của quốc gia.
Chính đó là kẽ hở mà các nhà hộ giáo như Giustinô, Atenagora, Tertullianô đã dùng để bênh vực các người đồng đạo. Theo họ, Kitô giáo không có xin đặc ân nào hết : họ chỉ muốn được đối đãi ngang với các tôn giáo khác mà thôi. Tại sao Đế quốc cho phép mỗi người được thờ thần nào tùy ý (kể cả chim cú, cá, mèo) mà lại cấm các kitô hữu không được hành đạo ? Hơn nữa, Tertullianô và Lactanxiô còn nhấn mạnh rằng việc theo đạo là chuyện tự do : nếu theo đạo hay tế tự vì bị cưỡng bách thì đâu còn giá trị nữa ? Thử hỏi có vị thần vui lòng chấp nhận một lễ tế bị cữơng ép đâu ?
2. Với sắc chiếu của hoàng đế Constantinô (khoảng năm 312-313), Kitô giáo được nhìn nhận chỗ đứng như các tôn giáo khác : các tín đồ Kitô giáo được tự do thi hành phụng tự và thành lập đoàn thể. Tuy nhiên tình hình đã lật ngược mau chóng trong khoảng 80 năm (312-391), khi mà Kitô giáo từ chỗ được đối xử ngang hàng với các tôn giáo khác, dần dần chiếm giữ thế độc tôn : các đền thờ của các tôn giáo cổ truyền bị đóng cửa. Đối lại, Giáo hội cũng trả giá khá đắt khi được các Hoàng đế bảo vệ. Các hoàng đế đứng ra triệu tập công đồng, can thiệp để giải quyết các lạc giáo (thí dụ ariano), thuyên chuyển các Giám mục khi thấy an ninh quốc gia đòi hỏi (thánh Atanasio là một trường hợp điển hình).
Dưới bối cảnh đó, các giáo phụ bắt đầu suy tư về vai trò của chính quyền đối với vấn đề tôn giáo, tóm lại trong hai điểm sau đây :
* Chính quyền không được phép can thiệp vào vấn đề tôn giáo, cũng như Giáo hội không có lý do gì để xử các chuyện tranh tụng điền thổ. Nói khác đi, cần phải phân biệt hai lãnh vực: chính trị và tôn giáo (Lập trường tiêu biểu : Atanasiô bên Đông, Ambrosiô bên Tây).
* Chính quyền có nhiệm vụ cổ võ thuần phong mỹ tục, bài trừ những tệ đoan xã hội. Xem ra nguyên tắc đã quá rõ, nhưng áp dụng thế nào ? Các giáo phụ chia ra nhiều ý kiến khi bàn tới các tà giáo, lạc giáo. Thánh Gioan Kim khẩu thì chủ trương rằng cần phải dùng lý lẽ mà thuyết phục các lạc giáo; còn thánh Augustinô (từ năm 405) cho phép sử dụng vũ lực, dựa theo câu Phúc âm của Luca 14,23 (compelle intrare : thúc bách họ đi vào).
II. Thời Trung cổ
Bộ mặt Âu châu đã thay đổi từ khi quân man di trở lại. Có thể nói được là toàn thể Âu châu đã theo Kitô giáo. Xã hội thời Trung cổ lại còn dựa trên tổ chức của các thái ấp phong kiến, theo đó, các thần dân phải tuyên thệ trung thành với lãnh chúa. Lãnh chúa được coi như cha mẹ của dân, phải lo cơm no áo ấm cho dân cũng như phải cổ võ đạo nghĩa luân lý của thần dân. Nói cách khác, nhà cầm quyền vừa lo cả phần xác cả phần hồn của người dân. Không thiếu lần, các lãnh chúa là chính Giám mục hay Viện phụ. Trên chóp bu của chính quyền là Hoàng đế, lãnh nhận quyền hành từ Đức Thánh Cha.
Trong bối cảnh đó, thần học về tự do tín ngưỡng được phát biểu qua tác giả điển hình là thánh Tôma Aquinô như sau :
* Không thể cưỡng ép ai phải chấp nhận đức tin. Nói khác đi, không được dùng vũ lực để bắt người ta trở lại Kitô giáo.
* Tuy nhiên, được phép dùng vũ lực để bắt các người lạc giáo phải từ bỏ sự sai lầm của mình, và trở về chính đạo (II-II,q.10, a.8).
Đó là nói trên nguyên tắc; còn trên thực tế, nhà cầm quyền phải biết dung thứ (tolerare) một vài sự dữ để tránh những tai họa lớn hơn : nếu mà muốn diệt hết các người xấu trong xã hội, ắt sẽ có đại loạn (II-II,q.10,a.11). Mặt khác, thánh Tôma cũng khẳng định rằng mỗi người có bổn phận phải tuân theo lương tâm của mình, cho dù lương tâm sai lạc (conscientia erronea : I-II,q.19,5).
Như chúng ta đã biết trên đời này lý thuyết với thực hành không luôn luôn đi đôi với nhau. Mặc dù Giáo hội chủ trương rằng không ai được phép cưỡng bách người khác phải trở lại đạo; nhưng trong các cuộc chinh phục mở mang bờ cõi, các ông hoàng Kitô giáo không ngần ngại bắt dân bại trận phải theo đạo. Có lẽ là các ông hoàng đó nghĩ rằng mình phải cộng tác vào việc mở mang nước Chúa với cương vị của mình. Dù sao đi nữa, thì không thể chối cãi được ích lợi chính trị của biện pháp vừa nói: nếu tất cả thần dân đều theo một tôn giáo như nhau, thì an ninh quốc gia sẽ được bảo đảm hơn. Đó cũng là lý do vì sao các ông hoàng thẳng tay trừng trị các lạc giáo : bởi vì nó gây ra nhiều xáo trộn cho xã hội (Thí dụ lạc giáo manikêo và catari đả phá hôn nhân, tư hữu, lao động và quyền hành).
III. Giai đoạn cận đại
Như chúng ta đã biết, tại xã hội Âu châu thời Trung cổ, dân chúng nói được là toàn tòng Kitô giáo. Nhà cầm quyền không phải chỉ lo cho nhân dân được an cư lạc nghiệp, mà còn có nhiệm vụ bảo vệ đức tin nguyên tuyền và phong hóa lành mạnh. Một cách cụ thể hơn, tuy rằng không ai được phép cưỡng bách người ngoại trở lại đạo; nhưng luân lý cho phép sử dụng vũ lực để đàn áp các lạc giáo, bắt họ từ bỏ sai lầm và trở về đàng ngay nẻo chính.
Chính trong bối cảnh đó mà vấn đề tự do tín ngưỡng được đặt ra tại Âu châu vào thời cận đại, với các phong trào Cải cách Tin lành. Cuộc cải cách bắt đầu từ Luterô. Lúc đầu Lutêrô bênh vực tự do của lương tâm trong vấn đề đức tin : đối với việc tin con người chỉ trả lời trực tiếp với Chúa, chứ không phải lệ thuộc quyền bính nào, dù là Giáo hoàng hay là hoàng đế. Lutêrô muốn lật ngược lại chủ trương của thần học Trung cổ; theo ông, chính quyền không có thẩm quyền gì mà phân xử các chuyện lạc giáo và truy nã họ. Tuy nhiên, đến khi phong trào Cải cách đã lớn mạnh thì Lutêrô lại thay đổi quan điểm. Một đàng, ông muốn bài trừ những gì mà ông gọi là dị đoan về phía công giáo (lễ Misa, các dòng tu); đàng khác, có những nhóm chủ trương cải cách đi quá xa, đến nỗi chối cả Chúa Ba Ngôi. Vì vậy mà Lutêrô lại quay về với thần học kinh viện, chủ trương rằng chính quyền có nhiệm vụ phải diệt trừ các lạc giáo. Các lãnh tụ khác của phe Cải cách như Zwingli, Calvinô cũng đồng ý như vậy. Thế nhưng vấn đề được đặt ra là : đâu là chính giáo ? đâu là lạc giáo ? Dĩ nhiên, đối với các nhà Cải cách thì chỉ có họ mới là chính giáo; còn Công giáo và các phe khuynh tả cấp tiến đều là lạc giáo. Những cuộc chiến tranh tôn giáo đã diễn ra tại Đức, Pháp, Anh. Vua hay chúa mà theo phe nào thì dân phải theo phe đó : các phần tử đối lập bị diệt trừ thẳng tay.
Phải nhìn nhận rằng các cuộc tranh đấu cho tự do tôn giáo không phát xuất từ phía Công giáo, Lutero, Calvinô, Anh giáo, song là từ phía các nhóm thiểu số ly khai như là : anabaptistes (B. Hubmaier, S. Frank, S. Castellion), antitrinitaires (B. Ochinô, J. Aconcio, F. Socinô). Theo tâm lý thường tình, những thành phần thiểu số bị đàn áp thì gào thét để được tự do; nhưng đến khi nắm quyền rồi, thì họ sẽ loại trừ những thành phần đối lập. Dù sao, xét về mặt lý thuyết, thì các nhóm tranh đấu cho tự do tín ngưỡng đưa ra bốn luận cứ sau đây :
1) Bản chất của tôn giáo. Cốt yếu của tôn giáo không hệ tại ở các tín điều, mà ở chỗ đời sống liêm chính. Vì vậy không nên đặt ra vấn đề chính giáo với lạc giáo làm gì. Đạo nào cũng có lý lẽ của nó; mỗi người chúng ta chỉ nhìn thấy một góc cạnh của chân lý mà thôi. Vì vậy, thay vì chửi bới người khác là lầm lạc, tốt hơn ta hãy cố gắng chú trọng vào việc tu tâm dưỡng tính đi. Trên đời này còn biết bao nhiêu tội lỗi nặng hơn tội rối đạo chứ : giết người, cướp của, tà dâm. Dĩ nhiên, không thiếu người tựa như Sebastien Castellion (một nhà thần học cải cách nhưng đã ly khai khỏi Calvinô) đã đòi xét lại quan niệm về "lạc giáo" : quan niệm này rất hàm hồ, bởi vì như lịch sử đã cho thấy, khuynh hướng tự nhiên là đi chụp mũ "lạc giáo" cho những ai không đồng ý kiến với mình. Vài tác giả khác, (như Nicolas de Cusa, Marsilio Ficino, Erasmus) cho rằng tất cả các tôn giáo trước sau gì rồi cũng sẽ dẫn con người về với chân lý của đức Kitô.
2) Lý do thứ hai bênh vực cho tự do tôn giáo là Nhà Nước hoàn toàn vô thẩm quyền trong vấn đề tôn giáo. Vai trò của nhà nước là bảo đảm an ninh trật tự, lo cho dân được cơm no áo ấm. Còn vấn đề tín ngưỡng là chuyện riêng của các công dân và của các tôn giáo. Vấn đề thẩm định đâu là chính đạo và đâu là tà đạo không thuộc về chức năng của nhà nước (các tác giả tiêu biểu : Roger Williams, John Locke, Christian Thomas). Cũng nên biết là sự phân biệt hoàn toàn giữa thế quyền với giáo quyền chỉ được thực hiện triệt để tại Hoa Kỳ, nơi mà nhà nước không bênh cũng không chống một tôn giáo nào. Còn tại Âu châu, trong các thế kỷ 16-19, nhà nước thường là phò một tôn giáo này và bài trừ các tôn giáo khác; và không thiếu lần đàn áp tất cả các tôn giáo.
3) Lý do thứ ba bênh vực tự do tín ngưỡng là sự sống chung trong xã hội. Nếu nhà nước đàn áp các tôn giáo hoặc nếu các tôn giáo gây chiến với nhau thì xã hội đâm ra loạn lạc, với nhiều ảnh hưởng tai hại cho hòa bình, sự sản xuất kinh tế. Đây là chủ trương của các nhà chính trị học và kinh tế học, như Michel de l'Hôpital, Jean Bodin. Ta thấy rằng so với thời Trung cổ, quan điểm chính trị đã thay đổi : trước đây, nếu toàn dân cùng theo một tín ngưỡng như nhau thì trật tự xã hội sẽ được bảo đảm; nhưng bây giờ, sự chấp nhận tự do tín ngưỡng mới thực là cần thiết để duy trì an ninh xã hội. Mặt khác, không thiếu nhà thần học đã trích dẫn dụ ngôn về cỏ lồng vực nói trong Phúc âm : bao lâu còn sống trên đời này, chúng ta không thể nào bứng hết cỏ dại được, nếu không muốn nhổ lây cả cỏ tốt.
4) Lý do thứ bốn là tôn trọng lương tâm con người. Lý do này phần nào có liên hệ với lý do thứ nhất, bởi vì gắn liền với bản chất của tín ngưỡng. Việc cưỡng bách theo một tín ngưỡng mà lương tâm không xác tín sẽ đưa tới sự theo đạo bôi bác bề ngoài, giả hình. Chúa đâu có thích lối theo đạo đó ? Việc truyền đạo phải được tiến hành qua đường lối thuyết phục bằng lý lẽ chứ không bằng cách cưỡng ép.
Đối với thần học công giáo thì lý do thứ bốn được coi là mạnh hơn cả. Trên thực tế, vấn đề tự do tín ngưỡng hầu như được đồng hóa với vấn đề tự do của lương tâm.
Ngoài ra cũng nên biết là những lý do bênh vực tự do tín ngưỡng vừa nêu đã phát xuất từ những tín đồ chân thành, muốn được yên ổn thực hành niềm tin của mình mà không bị bách hại, bắt bớ tù đày. Thế nhưng, từ thế kỷ 18-19 trở đi, tự do tín ngưỡng lại được dùng làm chiêu bài của những nhà triết học duy lý (như Gotthold Lessing, J. J. Rousseau, Voltaire), để đả kích tôn giáo. Theo họ, cần phải tranh đấu cho tự do tín ngưỡng, bởi vì không có tôn giáo nào đạt tới chân lý hết : chân lý chỉ có thể tìm thấy trong các lý luận triết học mà thôi. Nói khác đi, theo các nhà triết gia này tự do tín ngưỡng đồng nghĩa với việc loại bỏ các tôn giáo. Bài học đau thương cho các Giáo hội và các tôn giáo là các cuộc cách mạng chính trị xã hội đã không mang lại cho các công dân quyền tự do được theo bất cứ tín ngưỡng nào mà họ thích, nhưng họ bị buộc phải theo tín ngưỡng của cách mạng : chẳng hạn như đạo của lý trí tại Pháp (sau cách mạng 1789) và đạo của mácxít tại Nga (sau cách mạng 1917).
B. TRƯỚC NGƯỠNG CỬA VÀ TRONG CÔNG ĐỒNG VATICANO II
Cần phải đặt vấn đề trong bối cảnh lịch sử như vậy, thì mới hiểu được phản ứng của Giáo hội công giáo đối với tự do tín ngưỡng.
I. Vào lúc soạn thảo văn kiện về Tự do Tín ngưỡng, các chuyên viên của công đồng đã phải đương đầu với nhiều khó khăn về thực tế và nhất là về tư tưởng. Về thực tế, các tín đồ công giáo bị thiếu tự do tại nhiều nơi : không những tại các nước cộng sản, mà còn tại các nước Hồi giáo, và thậm chí tại vài nước theo Tin lành hay Anh giáo. Vì vậy, cần phải đòi hỏi tôn trọng tự do tín ngưỡng. Thế nhưng phải hiểu thế nào tự do tín ngưỡng như thế nào ? Đó là khó khăn về tư tưởng. Thực vậy, trong hai thế kỷ 19-20, do ảnh hưởng của các trào lưu duy lý vô thần, tiếng "tự do tín ngưỡng" (=TDTN) được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau hoặc được biện minh với những lý chứng khác nhau.
1) TDTN được hiểu như là : tự do theo lương tâm. Giáo hội công giáo cũng chấp nhận điều này, theo nghĩa là không ai phải bị cưỡng bách phải theo một tín ngưỡng trái với thâm tín lương tâm. Tuy nhiên, Giáo hội công giáo thêm rằng : lương tâm được tự do theo nghĩa là không thể bị cưỡng bách do một áp lực từ bên ngoài; nhưng mà lương tâm không có tự do tuyệt đối, bởi vì lương tâm có nghĩa vụ phải đi tìm chân lý và buộc phải theo chân lý. Thực vậy, con người đâu có phải là chủ tể càn khôn, mẫu mực của chân lý đâu.
2) TDTN được hiểu như là đạo ai người nấy giữ. Giáo hội công giáo cũng chấp nhận điều đó, theo nghĩa không ai có quyền cưỡng bách người khác phải bỏ đạo của mình, hoặc là phải đổi sang đạo khác. Tuy nhiên, Giáo hội không chấp nhận lý do mà một số trào lưu duy lý coi rằng đạo nào cũng như đạo nào, không có chân lý nào tuyệt đối cả.
3) TDTN được hiểu theo nghĩa là tự do thực hành tín ngưỡng của mình. Nhưng không thiếu những chính quyền duy lý và vô thần chủ trương TDTN theo nghĩa là phải thoát ly khỏi hết mọi tôn giáo (libertas a religione), bởi vì tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ. Đối với họ, chính sách TDTN đồng nghĩa với sự tiêu diệt hết mọi hình thức tôn giáo.
II. Trong các sách thần học soạn ra trong tiền bán thế kỷ 20, vấn đề TDTN được nhìn dưới góc cạnh về vai trò của Nhà Nước đối với tôn giáo, tóm lại trong ba điểm. Điểm thứ nhất có tính cách nguyên tắc. Điểm thứ hai có tính cách áp dụng trong các nước công giáo; và điểm 3 áp dụng trong các nước không công giáo.
1) Nguyên tắc. Quốc gia và Giáo hội là hai xã hội toàn vẹn (societas perfecta) tách biệt nhau (bởi vì mỗi bên có những cơ chết hoàn bị, để theo đuổi những mục tiêu riêng biệt của mình). Tuy tách biệt, nhưng đôi bên gắn bó chặt chẽ với nhau, vì lẽ cùng ảnh hưởng tới một môi trường chung : những tín hữu cũng là những công dân; cả Giáo hội lẫn Quốc gia đều nhằm tới việc cổ võ hạnh phúc cho dân.
2) Áp dụng. Trong các nước công giáo, chính quyền phải cung cấp cho Giáo hội công giáo những phương tiện cần thiết để thực thi sứ mạng của mình. Còn với các tôn giáo khác, chính quyền phải áp dụng chính sách "bao dung tôn giáo" (tolerantia religiosa), nghĩa là chấp nhận cho họ được hoạt động trong giới hạn cần thiết để duy trì an ninh công cộng. Nhưng chính quyền không thể nào đối xử đạo chính ngang hàng với đạo tà được.
3) Áp dụng. Trong các nước không công giáo, chính quyền phải áp dụng luân lý tự nhiên, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng đồng đều cho hết mọi tôn giáo.
Những cuộc tranh luận về tự do tín ngưỡng tại công đồng Vaticano II
Chúng ta đã lượt qua sự tiến triển của quan niệm về TDTN qua dông lịch sử. Lúc đầu TDTN được trình bày như một yêu sách của các nhóm thiểu số bị bách hại; dần dần TDTN cũng được dùng như chiêu bài để tiêu diệt các tôn giáo. Còn Giáo hội công giáo chấp nhận TDTN theo nghĩa là không ai được phép cưỡng bách người khác phải theo đạo Kitô. Nhưng Giáo hội không chấp nhận TDTN theo nghĩa là ai muốn theo đạo nào thì theo, xét rằng chẳng có nào đạo nào đúng đạo nào sai cả. Dĩ nhiên, đạo đúng (đạo thật) là đạo đã được Chúa mặc khải, và chính là Kitô giáo. Do đó mà chính quyền phải bênh vực đạo công giáo; còn các đạo khác thì chỉ có thể "chấp nhận" (tolerare), nhưng không thể nào đặt các tôn giáo ngang nhau được.
Thực ra, quan điểm về TDTN rất là phức tạp, bởi vì nó liên hệ tới nhiều khía cạnh.
1) Dưới khía cạnh thần học, thì vấn đề quan trọng hơn cả có lẽ là : có đạo nào dám tự xưng là chính đạo, khác với các tà đạo hay không ?
2) Còn xét dưới khía cạnh lịch sử, thì vấn đề quan trọng là: chính quyền có vai trò như thế nào đối với tôn giáo ? Như chúng ta đã biết, trong các xã hội cổ truyền, gia trưởng, tộc trưởng hay quốc trưởng phải đảm đương các buổi tế tự của gia đình, thôn xã hoặc quốc gia. Nói khác đi, chính quyền phải đảm đương việc lãnh đạo tôn giáo nữa, xét vì tôn giáo gắn liền với căn tính của gia đình và dân tộc. Kitô giáo đã muốn vượt qua hàng rào địa phương đó, và tách rời sự lãnh đạo chính quyền ra khỏi sự lãnh đạo tôn giáo. Tuy nhiên dần dần, trong các nước theo Kitô giáo, chính quyền cũng lãnh nhiệm vụ bảo vệ tôn giáo cùng với trách nhiệm bảo vệ thuần phong mỹ tục của xã hội. Chính trong bối cảnh đó, mà quan điểm của Giáo hội công giáo vào đầu thế kỷ 20 về vai trò của chính quyền là phải bảo vệ đạo thật; và "chấp nhận" (tolerare) các đạo khác, có nghĩa là nhắm mắt làm ngơ, để tránh sự dữ hơn, xét rằng nếu mà diệt hết các tà đạo thì sẽ có loạn to.
3) Một khía cạnh không kém phần quan trọng nữa là sự tôn trọng tự do của con người.
Trong quá khứ, có lẽ khía cạnh này ít được nói tới; nhưng dần dần yếu tố này lại trở nên tất định trong các tuyên ngôn quốc tế cũng như trong những văn kiện cận đại của Giáo hội, kể từ công đồng Vaticano II.
Trong thời gian nhóm họp công đồng Vaticano II, từ khi được đệ trình cho các nghị phụ tranh luận cho đến lúc được biểu quyết chấp thuận, nghĩa là trong khoảng 2 năm (tháng 11 năm 1963 đến tháng 11 năm 1965), ủy ban soạn thảo đã phải viết đi viết lại 7 lược đồ về TDTN : lúc đầu như là một chương của văn kiện về đại kết (Schema decreti De Oecumenismo. Cap.V : De Libertate religiosa), dần dần tách hẳn ra thành một văn kiện riêng (Từ lược đồ thứ ba trở đi). Nói chung thì hầu hết các nghị phụ đều nhận thấy cần phải lên tiếng để tranh đấu cho TDTN, bởi vì tại nhiều nơi, các tín hữu công giáo bị chèn ép không được tự do giữ đạo. Nhưng mà phải trình bày TDTN như thế nào để khỏi rơi vào những chủ trương sai lầm của các thuyết duy lý vô thần, kẻo rồi gậy ông lại đập lưng ông ? Chính những khó khăn đó đã khiến cho việc soạn thảo văn kiện trở thành gay go, đến nỗi vào lúc căng thẳng nhất các nghị phụ đã bị giằng co giữa hai ý kiến cực đoan : một bên thì muốn dẹp quách vấn đề bởi vì chưa chín mùi; còn bên kia thì muốn chỉ ra một tuyên ngôn ngắn gọn, không cần phải lý luận dài dòng gì hết. Tuy nhiên ở giữa hai thái độ bốc đồng đó, ủy ban kiên nhẫn tìm một lối thoát. Chìa khóa để khai thông bế tắc nằm ở chỗ đặt nền tảng của TDTN ở trên phẩm giá của con người, một chủ thể có trách nhiệm; thay vì dựa trên chân lý khách quan (quyền truyền bá sự thật, và dẹp bỏ sai lầm) theo như những lập luận cổ truyền.
Như thế, có thể nói qua dòng lịch sử từ thời cổ cho đến nay, quan niệm về tự do tín ngưỡng có tiến triển. Tự do tín ngưỡng là một quyền, “hệ tại con người không bị lệ thuuộc vào áp lực của cá nhân, đoàn thể xã hội hay của bất cứ quyền bính trần gian nào khác” (Tuyên ngôn về Tự do Tín ngưỡng, số 2).
“Phải công nhận
là thời nay con người khát mong được tự do tuyên xưng tôn giáo mình một cách
riêng tư cũng như công khai. Hơn nữa, họ còn muốn tự do tôn giáo phải được hầu
hết các hiến pháp công bố như một dân quyền, và phải được các văn kiện quốc tế
long trọng chấp nhận”.
(Tuyên
ngôn Về Tự do Tôn giáo, số 15).