Thời sự Thần học – Số 12 – Tháng 6/1998, tr. 59-77
Việt Nam
Ngày 10/12/1948 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã biểu quyết bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền. Để có được biểu quyết này, đã phải có một lịch sử dài về vấn đề nhân quyền.
Bài này xin được trình bày nguồn gốc lịch sử của vấn đề nhân quyền, cho thấy sự tiến triển về quan niệm nhân quyền trong lãnh vực triết lý, thần học, pháp lý, và nhất là muốn nêu bật rằng cội nguồn của vấn đề nhân quyền dưạ trên phẩm giá con người mà đức Kitô đã mặc khải cho chúng ta qua mầu nhiệm nhập thể. Do đó việc bảo vệ nhân quyền là một vấn đề luân lý, trước khi là một vấn đề pháp lý và chính trị.
A. Lịch sử những bản tuyên ngôn nhân quyền
Thực khó mà xác định được bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên ra đời năm nào. Trong lịch sử nhân loại, ngay từ cổ thời đã có các bản văn nhìn nhận những quyền lợi của con người; nhưng không phải ai ai cũng được hưởng những quyền đó mà chỉ có một giai cấp nào, một giới nào đó thôi. Việc nhìn nhận cho hết mọi người, bất luận tuổi tác, phái tính, giai cấp nào, cũng được hưởng một số quyền lợi căn bản như nhau, là một chuyện xem ra mới mẻ. Người ta thường cho rằng khởi điểm là Tuyên ngôn của cách mạng Pháp năm 1789 : "Hết mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng với nhau". Tuy nhiên bản tuyên ngôn này có một tiền sử gần và xa của nó.
Thực vậy, bản tuyên ngôn các quyền lợi con người của cuộc cách mạng Pháp không thành hình một sớm một chiều, lại càng không phải là một thiên thể từ trên trời rơi xuống. Nó đã được chín mùi từ bao nhiêu tư tưởng triết lý, tôn giáo và pháp lý trước đó.
1. Nguồn gốc gần
Trong số những văn kiện pháp lý gây ảnh hưỏng trực tiếp trên tuyên ngôn nhân quyền của cách mạng Pháp cần phải kể đến sắc dụ (bulla) Sublimis Deus (2/6/1537) của Đức Thánh Cha Phaolô III. Bối cảnh lịch sử của nó là những cuộc tranh luận thần học và pháp lý tiếp theo cuộc khám phá lục địa Mỹ châu : ai có quyền làm chủ lục địa này ? Phần đông các nhà thần học Tây Ban Nha thời đó cho rằng vũ trụ này thuộc về Thiên Chúa, cho nên ai theo đạo Thiên Chúa thì có quyền chiếm hữu vũ trụ. Tuy nhiên cha Francísco de Vitoria, dòng Đaminh, giáo sư tại Salamanca (1484-1546), chủ trương rằng chủ quyền đất đai không dựa trên lý do tôn giáo nhưng dựa trên bản tính con người. Vì thế các thổ dân có quyền làm chủ lãnh thổ của họ, và hoàng triều Tây Ban Nha không có cơ sở pháp lý nào để chiếm cứ. Cuộc tranh luận kéo dài hàng chục năm. Sắc dụ của đức Phaolô III chấp nhận lập luận của cha Francíco de Vitoria, khi tuyên bố rằng : "Các thổ dân, tuy không phải là kitô hữu, nhưng không thể bị tước đoạt tự do và chủ quyền sở hữu; họ có quyền được hưởng tự do, tài sản và thủ đắc thêm tài sản; không ai được phép bắt họ làm nô lệ". Nên biết là văn kiện này không phải chỉ có tính cách thần học, nhưng nó còn có tính cách pháp lý nữa bởi vì nó ràng buộc chính sách của hoàng triều Tây Ban Nha tại Mỹ châu, và cha Bartôlômêô de Las Casas đã dựa vào đó để bảo vệ tự do cho các thổ dân. Tuy bản văn còn mang nhiều giới hạn về lý thuyết và áp dụng, nhưng nó cũng đã phản ánh ý thức về những quyền lợi gắn với bản tính con người, tựa như : tự do, sở hữu và thủ đắc tài sản. Nó là khởi điểm cho viêc thiết lập danh sách các quyền lợi căn bản của con người trong các thế kỷ kế tiếp, chẳng hạn : Bill of Rights bên Anh (1689), và những tuyên ngôn độc lập ở Bắc Mỹ. Cũng nên biết là cần phải chờ đợi thời gian để có thể kiện toàn không những danh mục các quyền lợi (như sẽ trình bày sau), mà kể cả danh hiệu nữa. Vào các thế kỷ 16-17, từ ngữ còn mông lung : quyền của công dân, quyền của con người, quyền tự nhiên, quyền thiên nhiên, v.v... Thế nhưng phải nói rằng chính lý thuyết về quyền tự nhiên đã trở thành nguồn gốc và nên tảng của học thuyết về nhân quyền.
2. Nguồn gốc xa
Từ ngữ quyền tự nhiên (droit naturel), ắt sẽ gợi lên trong đầu óc của mỗi người một tư tưởng khác nhau. Có người liên tưởng tới những quyền tự do của loài người khi còn sống trong tình trạng tự nhiên, muốn làm gì thì làm, không bị luật lệ nào cưỡng bách gò bó. Không hiểu trên thực tế có bao giờ con người được hưởng tình trạng đó chưa ? Tuy nhiên, ta cũng có thể hiểu quyền tự nhiên theo nghĩa là những quyền lợi gắn với bản tính (nature) của con người, nghĩa là bẩm sinh chứ không do xã hội ban cấp và thu hồi. Ý thức về những quyền lợi bẩm sinh đã xuất hiện trong các triết gia Hy-lạp La-mã trước Kitô giáo. Vào thế kỷ thứ năm trước công nguyên, ông Sôphôclê (k.497-405) trong tác phẩm Antigone có kể lại một thiếu nữ đã dám bất tuân lệnh của nhà vua cấm không được chôn cất người anh của mình can tội phản quốc. Nàng dám khẳng khái tâu với vua rằng sở dĩ cô dám làm trái lệnh của vua là vì có luật trời còn cao hơn nữa ! Trong tiến trình đòi hủy bỏ chế độ nô lệ, các triết gia Hy-lạp đã lập luận rằng con người sinh ra đều bình đẳng với nhau; sở dĩ có người làm chủ nhân và có người làm tôi mọi là do hoàn cảnh thời thế mà thôi. Dù sao, có thể nói được là ý thức về quyền lợi tự nhiên (hay bẩm sinh) đã chín mùi trong những cuộc đối kháng chống lại những luật lệ bất công hay hà khắc. Chúng ta sẽ bàn tới quan điểm Kitô giáo về nhân quyền trong một bài khác. Ở đây chỉ cần ghi nhận tên tuổi một vài triết gia cận đại đã gây ảnh hưởng đến các bản tuyên ngôn nhân quyền : Thomas Hobbes (1588-1679), Edward Coke (1552-1634), John Locke (1632-1704). Lập luận của họ đều dựa trên thâm tín rằng : con người có những quyền lợi gắn liền với bản tính (nghĩa là bẩm sinh) chứ không phải là do đặc ân của nhà cầm quyền xã hội ban cấp. Nói cho cùng thì nguồn gốc của các quyền tự nhiên là chính Đấng Tạo Hóa đã dựng nên con người; nhưng đó là lối nhìn theo quan điểm tôn giáo hữu thần mà các triết gia và luật gia cận đại không muốn biết tới. Tuy nhiên, đó cũng là lợi điểm bởi vì nó bắt buộc Giáo hội và thần học phải tìm ra một ngôn ngữ mới để đối thọai với những người ngoài Kitô giáo và kể cả với người vô tín ngưỡng. Như đã nói trên đây, có thể coi bản tuyên ngôn nhân quyền của cách mạng 1789 bên Pháp như khởi điểm của những văn kiện pháp lý cận đại về nhân quyền. Chúng tôi xin nhấn mạnh đến hai tiếng "khởi điểm" bởi vì từ đó tới nay, quan điểm về nhân quyền đã tiến triển rất nhiều, người ta nói tới bốn thế hệ nhân quyền :
B. Sự tiến triển quan niệm về nhân quyền trong thế kỷ XX
Ngay từ cổ thời, đã có những triết gia Hy-lạp bảo vệ những quyền lợi tự nhiên của con người có giá trị hơn cả luật pháp của vua chúa. Dĩ nhiên những quyền lợi đó không do xã hội ban cấp nhưng gắn liền với bản tính con người. Vào thời cận đại, các triết gia và luật gia cố gắng diễn tả những quan điểm đó ra thành văn kiện pháp lý, đặt trong các bản Hiến pháp và Hiến chương quốc tế. Chúng ta có thể lấy bản tuyên ngôn của cách mạng Pháp 1789 như là khởi điểm của một chuỗi những văn kiện đó. Tuy nhiên, cần phải ghi nhận rằng trong hậu bán thế kỷ XX, những bản tuyên ngôn nhân quyền không những chỉ dài thêm về số lượng những quyền lợi mà còn tiến triển về phẩm chất nữa. Thực vậy, các học giả nói tới 4 thế hệ nhân quyền :
- thế hệ của những quyền tự do chính trị;
- thế hệ của những quyền lợi kinh tế xã hội;
- thế hệ của các quyền lợi cộng đồng;
- thế hệ của những quyền lợi nhân loại.
Dĩ nhiên cần hiểu là các thế hệ tiếp nối nhau và bổ túc cho nhau chứ không phải là loại trừ nhau. Chúng ta hãy theo dõi những bước tiến đó.
I. Những tự do và quyền lợi chính trị
Như đã nói ở phần trên, bản tuyên ngôn nhân quyền cách mạng Pháp đã có những tiền sử xa gần của nó. Gần hơn cả là những tuyên ngôn bên Anh quốc váo thế kỷ 17. Tuy nhiên tuyên ngôn cách mạng 1789 của Pháp đã đánh dấu một giai đoạn mới, bởi vì không những nó được truyền bá và áp đặt trong nước do chính quyền cách mạng mà còn tại những quốc gia khác ở Âu châu do những cuộc chinh phục quân sự của Napoléon. Bản tuyên ngôn được sử dụng như khí cụ để lật đổ các chế độ quân chủ. Dưới khía cạnh lý thuyết, ta thấy có sự tiến triển về quan niệm nhân quyền so với các bản văn trước đó. Thực vậy, trước đây, để chống lại những luật lệ bất công hay hà khắc của nhà vua, người ta đã tranh đấu để được hưởng một vài đặc ân, nhưng mà những đặc ân đó chỉ giới hạn vào một vài điểm cụ thể (thí dụ : có thể theo một tôn giáo khác với quốc giáo; không bị bắt giam vô cớ), hay chỉ dành cho một tầng lớp xã hội (quý tộc, giáo sĩ). Tuyên ngôn cách mạng Pháp nhìn nhận cho hết mọi con người sinh ra đều được tự do và bình đẳng.
Tuy nhiên, với dòng thời gian, người ta thấy bản tuyên ngôn cách mạng Pháp có nhiều giới hạn.
- Chủ thể của những quyền lợi không phải là hết mọi con người sinh ra dưới gầm trời này, mà chỉ là những công dân Pháp quốc. Tựa đề của tuyên ngôn đã nói rằng đây là những quyền của con người và của công dân (nhân quyền và dân quyền). Dĩ nhiên các dân ở các nước thuộc địa không thể nào yêu sách được hưởng những quyền lợi đó, bởi vì họ đâu có phải là công dân nước Pháp ? Vả chăng các phụ nữ, các vị thành niên còn chưa được hưởng quyền công dân kia mà !
- Bản chất của những quyền lợi công dân có tính cách tiêu cực. Chúng là giới hạn cho sự can thiệp của Nhà Nước, nghĩa là chính quyền không được phép đụng tới khu vực tự do của các công dân. Trên lý thuyết thì thật là tuyệt vời; nhưng mà khi bối cảnh xã hội thay đổi thì những quyền tự do đó chỉ bảo vệ cho giới tư sản, còn lớp dân nghèo thì chỉ có quyền tự do chết đói. Điều này đã xảy ra nhân cuộc cách mạng kỹ nghệ bên Âu châu vào thế kỷ 19. Giới tư bản nại tới các quyền tự do để có thể thao túng thị trường theo định luật cung cầu, với hậu quả là hàng triệu người rơi vào tình trạng nghèo đói của lớp vô sản. Như ta đã biết, đó cũng là nguyên nhân đưa tới những cuộc cách mạng cộng sản tại Âu châu.
II. Những quyền lợi kinh tế xã hội
Cuộc cách mạng Pháp đã đẻ ra tuyên ngôn các quyền lợi chính trị của công dân. Đó là thế hệ một. Do những thiếu sót vừa nêu, người ta thấy cần phải thêm những quyền lợi kinh tế xã hội. Đây là thế hệ thứ hai, điển hình với bản tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp quốc được biểu quyết ngày 10-12-1948 sau non hai năm thảo luận trải qua 18 dự thảo. Điều 1 của văn kiện viết như sau : "Mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi. Con người có lý trí và lương tâm, và phải đối xử với nhau trong tinh thần huynh đệ". Nên ghi nhận là nền tảng của nhân quyền được đặt trên phẩm giá của con người (lý trí và lương tâm). Dựa trên nền tảng này, bản tuyên ngôn loại trừ hết mọi thứ kỳ thị về chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, tư tưởng. Trong số các quyền lợi được liệt kê chúng ta có thể phân biệt hai nhóm :
1) Những quyền tự do cá nhân tựa như : sinh sống, an ninh bản thân (đ.3), không bị làm tôi mọi (đ.4), không bị hành hạ tra tấn, đối xử trái với nhân đạo (đ.5), không bị giam giữ hay trừng phạt trái phép (đ.9-11), không bị xâm phạm vào đời tư (đ.12), cũng như những quyền được kết hôn và lập gia đình (đ.16), quyền tư hữu (đ.17), quyền tự do tư tưởng, lương tâm, tín ngưỡng (đ.18), quyền tự do có ý kiến và phát biểu (đ.19), quyền hội họp và lập hội (đ.20). Những quyền này đã được nhìn nhận trong hiến pháp của các nước dân chủ rồi.
2) Những quyền chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa, từ đ.21 trở đi, tựa như : tham gia chính quyền, an sinh, làm việc và nghỉ ngơi (đ.23-24), bảo hiểm sức khỏe và tai nạn rủi ro (đ.25), giáo dục và văn hóa (đ.26-27).
Trước đây, những quyền tự do chính trị ra như đặt ra những giới hạn cho sự can thiệp của Nhà nước vào đời sống của tư nhân. Ngày nay, các quyền lợi kinh tế xã hội thì lại đòi hỏi Nhà nước phải hành động, tạo ra những điều kiện phục vụ cho các quyền lợi ấy (công ăn việc làm, nhà ở, bệnh viện, trường học, v.v...).
III. Những quyền lợi cộng đồng
Không ai có thể chối được những bước tiến về nhân quyền qua những tuyên ngôn và hiệp ước của LHQ, nhất là khi so sánh với bản tuyên ngôn 1789 của cách mạng Pháp. Tuy nhiên, đàng sau những bản liệt kê khác nhau về các quyền lợi ta thấy có một quan niệm như nhau về chủ thể của chúng, đó là cá nhân con người. Con người bẩm sinh đã có một số quyền lợi mà xã hội không những không được xâm phạm đến nhưng còn có bổn phận phải bảo vệ nữa. Thế nhưng quan niệm như vậy xem ra không tưởng, theo nghĩa là nó hình dung cá nhân con người tách rời ra khỏi cộng đồng xã hội, con người hiện hữu trước và ngoài xã hội. Chính vì thế các học giả bắt đầu nói tới thế hệ thứ ba của nhân quyền, với chủ thể là con người xét như là thành phần của một cộng đồng. Từ đó, vấn đề nhân quyền lôi kèm theo quyền của các cộng đồng, cách riêng là cộng đồng thiểu số : quyền của các cộng đồng (ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo) được hiện hữu và hoạt động. Cũng trong chiều hướng đó, Liên Hợp Quốc đã cổ võ không những là quyền độc lập tự quyết của các dân tộc mà còn quyền của những thành phần thường hay chịu thiệt thòi, chẳng hạn : các thiếu nhi, các người khuyết tật, các phụ nữ.
IV. Những quyền lợi của nhân loại
Vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX, thế giới nhân loại xem ra thu hẹp kích thước : ra như tất cả mọi người đều sống chung trong một ngôi làng nhỏ, và bất cứ biến cố nào xảy ra tại một vùng trên thế giới cũng đều gây ảnh hưởng cho toàn thể cộng đồng nhân loại. Người ta đã nghiệm thấy điều ấy không những khi chiến tranh vùng Vịnh đã gây ra cơn sốt giá cả về dầu lửa, mà còn qua những vụ di cư, tị nạn, khủng bố và nhất là môi sinh. Các nưóc nghèo phải chặt cây đốt rừng để sinh sống và trả nợ cho các nước giàu; nhưng sự phá rừng gây những ảnh hưởng đến thời tiết nhiệt độ của toàn thể địa cầu bất kể là nước giàu hay nước nghèo. Vì vậy mà việc bảo vệ nhân quyền không thể làm ngơ đến quyền của toàn thể cộng đồng nhân loại, bao gồm cả những thế hệ tương lai. Đến đây chúng ta bước sang thế hệ thứ bốn của nhân quyền, trong đó có ghi quyền sống của cá nhân và cộng đồng, quyền được hưởng hòa bình, quyền của các dân tộc được phát triển về văn hóa và kinh tế, v.v... Một lần nữa, Liên Hợp Quốc trở thành cơ quan thúc đẩy việc tổ chức những hội nghị về môi sinh, phát triển.
Bốn thế hệ nhân quyền không loại trừ nhau theo kiểu tre già măng mọc, nhưng chúng đánh dấu sự tiến triển về quan niệm về nhân quyền. Từ những quyền tự do căn bản liên quan tới phẩm giá nhân vị, người ta tiến sang những quyền kinh tế văn hóa, xã hội; thêm vào đó, chúng ta cũng thấy có sự tiến triển trong chính quan niệm về con người, chủ thể của các quyền lợi : từ con người cá thể cần bảo vệ khu vực tự do bất khả xâm phạm của mình, cho đến con người sống trong xã hội, cần được xã hội tạo điều kiện thuận tiện để con người có thể phát huy tài năng của mình và tham gia vào đời sống xã hội; hơn thế nữa, con người không phải chỉ là những cá thể rời rạc lẻ tẻ song là phần tử của những cộng đồng : việc bảo vệ con người kèm theo việc bảo vệ cộng đồng, cộng đồng ngôn ngữ, cộng đồng dân tộc, và cộng đồng nhân loại, gồm những con người đang hiện diện trên mặt địa cầu lẫn những thế hệ tương lai của con cháu chúng ta.
C. Việc thực thi các bản tuyên ngôn nhân quyền
Người ta tự hỏi : trên lý thuyết thì các danh mục quyền lợi càng ngày càng dài ra, nhưng trên thực tế thì các quyền lợi ấy được tôn trọng tới mức nào ? Các quyền lợi sơ đẳng nhất của con người được xếp vào thế hệ thứ nhất (tựa như quyền sống, quyền tự do tư tưởng) mà còn chưa được bảo đảm, thì còn nói chi tới các thế hệ thứ hai và thứ ba ? Trước hết chúng ta hãy nghiên cứu những công cụ nhằm thực thi các tuyên ngôn nhân quyền; kế đó chúng ta thử phân tích những khó khăn gặp phải trong việc yêu sách tôn trọng nhân quyền.
I. Những công cụ để thực thi tuyên ngôn nhân quyền
Thực ra, bản tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 của LHQ không mang tính cách ràng buộc pháp lý đối với các quốc gia hội viên. Mỗi quốc gia có quyền du nhập hay không danh mục các quyền lợi đó vào pháp chế của mình. Nhằm bổ túc khuyết điểm đó, LHQ đã cố gắng mang giá trị pháp lý cho bản tuyên ngôn nhân quyền bằng việc thảo ra những Thỏa ước có giá trị như luật quốc tế. Những thỏa ước đầu tiên liên hệ đến các quyền lợi công dân và chính trị (1966), những quyền lợi kinh tế, xã hội và văn hóa (1966). Đó là chưa kể các quy ước quốc tế khác cũng có liên quan tới một vài quyền lợi cụ thể hoặc một nhóm người, chẳng hạn quy ước ngăn ngừa và bài trừ sự diệt chủng (1948), bài trừ nạn buôn người và khai thác mãi dâm (1949), quy chế người di cư (1951), bài trừ kỳ thị chủng tộc (1965), bài trừ kỳ thị phụ nữ (1979), bài trừ tra tấn (1984), quyền của các nhi đồng (1989). Đó là chưa kể các thỏa ước nhân đạo thuộc phạm vi quốc tế công pháp, thí dụ liên quan đến điều kiện đối xử các tù binh, việc xử dụng hơi ngạt, v.v... Ta cũng có thể thêm các kế hoạch do Tổ chức Lao động Quốc tế và Tổ chức Văn hóa quốc tế đề xuất nhằm bảo vệ các quyền lợi xã hội và văn hóa. Chúng ta cũng không thể bỏ qua họat động của những cơ quan quốc tế nhằm thăng tiến đời sống con người, thí dụ : Tổ chức Y tế quốc tế, Hội chữ thập đỏ, Tổ chức lương nông quốc tế, v.v...
Những văn kiện vừa nói thường đi vào một vấn đề cụ thể với những chi tiết chấp hành. Tuy vậy, việc thực thi chúng tùy thuộc vào việc từng quốc gia có phê chuẩn thỏa ước hay không. Thí dụ cho đến năm 1994, đã có 124 quốc gia ký vào quy ước bài trừ kỳ thị chủng tộc nhưng mới có 82 nước phê chuẩn thỏa ước về những quyền lợi kinh tế xã hội. Việc nhìn nhận và bảo vệ nhân quyền trong các pháp chế của các quốc gia tiến hành rất chậm chạp. Vì thế người ta phải nghĩ tới các biện pháp khác hữu hiệu hơn. Một đường lối là qua việc giáo dục dân trí để gây ý thức cho người dân biết về những quyền lợi của họ. Một đường lối nữa là sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội để theo dõi và tố giác những vụ vi phạm nhân quyền (nổi tiếng hơn cả là tổ chức Amnesty International - thành lập năm 1961, và tới năm 1994 đã thâu nạp được 1.100.000 hội viên, phân thành 4.349 nhóm rải rác trên khắp các quốc gia). Song song với những biện pháp có tính cách tâm lý xã hội, các luật gia vẫn còn tin tưởng nơi các dụng cụ pháp lý, và có lẽ cố gắng của họ không phải là vô dụng. Chúng ta có thề thấy thí dụ điển hình tại Âu châu. Ngay từ năm 1950, các quốc gia Âu châu đã soạn thảo quy ước về việc bảo vệ các quyền lợi căn bản của con người. Quy ước này được kiện toàn dần dần không những về lý thuyết mà cả về kỹ thuật pháp lý với việc thiết lập Tòa án nhân quyền tại Strasbourg năm 1959. Các công dân Âu châu có quyền nại tới tòa án này để kiện nhà nước của mình khi quyền lợi của họ bị xâm phạm. Dựa vào những văn kiện ấy, đặc biệt là Văn kiện của Hội nghị về an ninh và hợp tác ở Âu châu ký vào năm 1975 tại Helsinki, mà các nhân vật đối lập tại các quốc gia Đông Âu (chẳng hạn Sakharov bên Nga, Walesa và công đoàn Soliđarnosc bên Balan, Havel và nhóm 77 bên Tiệp) đã tranh đấu cho quyền tự do, đưa tới sự thay đổi chính thể năm 1989. Dựa vào kinh nghiệm đó, LHQ đã triệu tập hội nghị quốc tế về nhân quyền (World Conference on Human Right) tại Vienne thủ đô Áo quốc vào tháng 6 năm 1993, với sự tham dự của 5000 người, đại diện cho 171 quốc gia và các tổ chức quốc tế. Ngoài những tác dụng đối với dư luận, hội nghị đã tiến tới việc thiết lập phủ Cao ủy nhân quyền như bước đầu tiến tới Tòa án quốc tế xét xử những vụ vi phạm nhân quyên về phía các chính quyền.
II. Những khó khăn trong việc áp dụng tuyên ngôn nhân quyền
Vào cuối thế kỷ XX, chúng ta thấy rằng ý thức về nhân quyền càng ngày càng gia tăng, nhưng đồng thời sự vi phạm nhân quyền cũng tàn bạo không kém. Thực ra thì chính lúc nhân quyền bị chà đạp mà người ta mới có ý thức sâu xa về nhân quyền. Như ta đã biết, những bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên đã ra đời nhằm chống lại bạo quyền của những chế độ chuyên chế hay các chế độ thực dân. Mặt khác, cũng cần thêm rằng càng có ý thức sâu sắc về quyền lợi của mình bao nhiêu thì con người lại càng nhạy cảm với sự xúc phạm bấy nhiêu : chẳng hạn người phụ nữ tại Âu Mỹ sẽ nhận thấy nhiều sự vi phạm đến quyên lợi nữ giới hơn là các chị em sống trong một xã hội vốn đề cao tam tòng tứ đức ! Dù vậy thiết tưởng không phải là thừa khi cố gắng tìm hiểu những khó khăn và trở ngại trong việc áp dụng các bản tuyên ngôn nhân quyền. Có những khó khăn khách quan và chủ quan, về lý thuyết và về thực hành.
1) Khó khăn thực hành sơ đẳng hơn cả là chính bản tính ích kỷ của mỗi người. Chúng ta yêu sách đòi hỏi mọi người phải tôn trọng quyền lợi của ta, nhưng khó có ai thuyết phục được ta phải tôn trọng quyền lợi của người khác ! Sự khó khăn đó càng tăng lên gấp trăm ngàn lần khi mà kẻ vi phạm là Nhà nước với quyền lực trong tay : thử hỏi ai dám chống lại họ ? Nếu là người dân trong nước thì sẽ bị ghép tội phản động và trừng trị đích đáng; còn nếu là áp lực đến từ bên ngoài thì sẽ bị tố cáo là xâm phạm vào chủ quyền quốc gia ! Như chúng ta đã biết, cho đến nay trên cấp bậc thế giới, chưa có tòa án nào có thẩm quyển xét xử các chính phủ về tội vi phạm nhân quyền, lại càng không có lực lượng cảnh sát quốc tế để cưỡng bách họ tôn trọng các tuyên ngôn nhân quyền !
2) Những khó khăn về lý thuyết cũng không phải là nhỏ. Chúng ta đã thấy rằng ý thức về các quyền lợi con người tiến triển dần dần với dòng lịch sử, từ những quyền tự do cá nhân sang đến những quyền chính trị kinh tế xã hội và quyền của các cộng đồng. Nhận xét này đã đưa một số người tới kết luận rằng vấn đề nhân quyền có tính cách tương đối, lệ thuộc vào một khung cảnh văn hóa lịch sử cụ thể chứ không mang tính cách phổ quát có giá trị cho toàn thể nhân loại. Một cách cụ thể hơn, cần ghi nhận sự kiện là các bản tuyên ngôn nhân quyền ra đời tại Âu Mỹ, chịu ảnh hưởng của Kitô giáo. Thực vậy, cho dù cách mạng 1789 tại Pháp đã muốn phớt lờ Thiên Chúa và cách mạng Mác-Lê đã công khai khước từ Thiên Chúa, nhưng mà Karl Marx, Lênin, Stalin đều chịu ảnh hưởng văn minh Kitô giáo, với ý thức cao về tự do cá nhân và công bằng xã hội. Cách mạng cộng sản ra đời từ đó chứ không phải là từ các quốc gia Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo ! Đây là một lập luận mà các lãnh tụ của các quốc gia Hồi giáo cũng như tại các quốc gia Phi châu và Á châu thường đưa ra : theo họ, chuyện nhân quyền lệ thuộc vào văn hóa Âu Mỹ chịu ảnh hưởng Kitô giáo, không phù hợp với tôn giáo văn hóa cổ truyền của họ !
3) Một khó khăn nữa về lý thuyết đã nảy ra giữa các học giả Âu Mỹ liên can tới chính bản chất của nhân quyền. Các quyền lợi của con người dựa trên nền tảng nảo ? Đâu là nguồn gốc của những quyền lợi con người ? Có thể nói tới quyền lợi mà làm thinh đến các nghĩa vụ hay không ?
Những khó khăn về lý thuyết đòi hỏi các học giả thuộc những nền văn hóa hoặc ý thức hệ khác nhau phải đối thoại để trình bày một học thuyết phổ quát về nhân quyền. Thực ra thì trong thời gian soạn thảo bản tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc, những xung khắc đó đã nảy lên rồi. Trước khi đi tới văn kiện chung kết, người ta đã phải tranh luận 18 dự thảo. Chúng tôi đã nói tới sự đối kháng của hai khối Tư bản và Cộng sản biểu lộ qua việc đề cao hai nhóm quyền lợi : khối tư bản nhấn mạnh tới các quyền tự do cá nhân; khối cộng sản thì tranh đấu cho các quyền kinh tế xã hội. Sau cùng, hai bên đã thỏa hiệp bằng việc kê khai cả hai loại quyền lợi. Thế nhưng sau đó, lại nảy ra vấn đề nền tảng của các quyền lợi. Các nước cộng sản vô thần không muốn nói tới Thiên Chúa hay Đấng Tối cao nào hết. Như chúng ta đã biết, bản tuyên ngôn đã tìm được thỏa hiệp khi đặt nền tảng của nhân quyền trên phẩm giá của con người. Dựa trên kinh nghiệm ấy, các chuyên gia thâm tín rằng vấn đề nhân quyền có tính cách phổ quát cho cả nhân loại chứ không phải chỉ là sản phẩm của một nền văn hóa riêng tư nào. Các quốc gia Phi châu cũng đã thỏa thuận để thảo ra Hiến chương nhân quyền tại Phi châu (La Charte africaine des droits de l'homme et des peuples, Nairobi 1986). Trước đó, vào năm 1981, các nhà lãnh đạo Hồi giáo đã trình bày cho UNESCO bản tuyên ngôn Hồi giáo về nhân quyền.
D. Giáo hội công giáo với vấn đề nhân quyền
Ngay từ những trang đầu của Kinh thánh, chúng ta đã đọc thấy những đoạn viết về phẩm giá cao quý của con người bởi vì được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26-27; 5,3; 9,6; Kn 2,23-24 ). Việc tôn trọng quyền lợi tha nhân được diễn tả cụ thể qua các giới răn ngăn cấm không được làm thiệt hại tới tính mạng, tài sản, danh dự của họ. Nói cho đúng, cần phải mất nhiều thời gian để cho dân Israel nhận ra rằng chân lý này có giá trị cho hết mọi nhân sinh chứ không phải chỉ có giá trị cho dân riêng Chúa mà thôi. Ý thức đó được trưởng thành dần dần. Dù sao ta nên ghi nhận những ưu khoản dành cho các "ngoại kiều, góa bụa và mồ côi" (Xh 21,20-23), tức là những thành phần lép vế trong xã hội. Một điểm đặc biệt nữa là tại Israel các vua không có uy quyền tuyệt đối : họ không thể ỷ lại vào quyền hành để mà giết người cướp của. Họ sẽ bị trừng phạt nặng nề nếu phạm những tội tày trời đó, như ta thấy hai trường hợp điển hình nơi vua Đavít (2Sm 12,7-10) và vua Acab (1V 21,17-24).
Dĩ nhiên, sang đến Tân ước, việc tôn trọng phẩm giá con người lại còn được đề cao hơn nữa khi mà đức Kitô đồng hóa mình với những kẻ đói khát, trần truồng, khách lạ, đau yếu, tù tội (Mt 24,31-46). Những trang Phúc âm nói về lòng bác ái không biên cương đã thúc đẩy bao nhiêu thế hệ kitô hữu lưu ý phục vụ những kẻ đã bị xã hội bỏ rơi không ai đếm xỉa tới.
Phải nói rằng đó là những tiền đề và nguồn gốc của ý thức về nhân quyền : phẩm giá con người bắt nguồn từ Thiên Chúa, và ở trên các luật lệ của xã hội. Dựa trên niềm thâm tín đó, các nhà thần học luân lý thời Trung cổ không những biện minh cho việc bất tuân những luật lệ bất công mà thậm chí cho cả việc nổi loạn lật đổ bạo vương nữa (Tôma Aquinô, ST II-II,q.42,a.2.ad 3m). Có lẽ cũng tại vì dựa trên tiền đề ấy mà Giáo hội rất dè dặt đối với bản Tuyên ngôn nhân quyền của cách mạng Pháp năm 1789. Cách mạng đã đòi cho người công dân được các quyền tự do, trong số đó có cả tự do tôn giáo, được hiểu như là tự do ly khai khỏi tôn giáo, khỏi phải chấp nhận Thiên Chúa ! Thế nhưng thử hỏi rằng : nếu loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài, thì lấy gì mà biện minh cho quyền lợi của con người ? Thần học cổ truyền cho phép người dân chống lại luật pháp bất công, bởi vì quan niệm rằng luật của nhà vua ở dưới luật của Thiên Chúa, vì vậy nếu mà luật vua trái với luật của Trời thì người dân buộc phải theo luật Trời chứ không buộc phải tuân theo luật của vua (Xc. Cv 5,29). Giờ đây, nếu gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài, thì lấy gì mà biện minh cho một quy chuẩn cao hơn luật pháp của Nhà Nước ? Thật là trớ trêu khi biết rằng đó cũng là vấn nạn mà Karl Marx nêu lên cho những ai muốn đòi hỏi cho con người quyền tự do không bắt nguồn từ Nhà nước !
Cần phải chờ tới Đức Gioan XXIII người ta mới thấy có sự chuyển hướng trong thái độ của Giáo hội đối với lý thuyết về nhân quyền, nhờ việc phân biệt các thứ ngôn ngữ khác nhau.
1) Có thứ ngôn ngữ phát biểu lòng tin Kitô giáo, dựa trên những chân lý mặc khải. Đây là ngôn ngữ dành cho những người đã có lòng tin.
2) Nhưng đến khi phải nói chuyện với người không cùng tín ngưỡng hay vô tín ngưỡng thì phải dùng ngôn ngữ khác.
Dựa trên mặc khải, chúng ta biết rằng phẩm giá con người cao quý bởi vì được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và được kêu mời vào hưởng hạnh phúc với Ngài. Giáo hội có bổn phận rao truyền chân lý về phẩm giá con người. Thế nhưng làm sao mà thuyết phục những người ngoài Kitô giáo chấp nhận phẩm giá con người, nhất là những kẻ không tin có Thiên Chúa? Giáo hội phải đối thoại với con người thời đại với ngôn ngữ mà mọi người hiểu được, đó là ngôn ngữ của pháp luật quốc tế, ngôn ngữ của nhân quyền. Hướng đi này được bắt đầu với thông điệp Pacem in terris của đức Gioan XXIII (14-4-1963) gửi đến hết mọi người thiện chí. Ngôn ngữ đó được công đông Vaticano II khai triển trong hiến chế Vui mừng và Hy vọng. Phẩm giá con người được khẳng định dựa trên các tài năng tinh thần (trí tuệ, lương tâm, tự do: số 15-17), trước khi nói tới phẩm tính cao quý vì đã được kết hợp với Thiên Chúa nơi đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể (số 22). Những quyền lợi của con người phát xuất từ bản tính con người, chúng là những yêu sách để cho con người sống xứng với phẩm giá của mình. Con người không thể bị đối xử như súc vật hay như đồ vật ! Phương pháp ấy cũng được sử dụng trong tuyên ngôn về tự do tín ngưỡng, bắt đầu với hai tiếng Dignitatis Humanae (phẩm giá con người) : quyền này dựa trên phẩm giá con người, đi tìm chân lý và gắn bó với chân lý qua việc truy tầm, đối thoại, và tự do chấp nhận sau khi đã thâm tín. Vì vậy mà việc áp đặt bắt con người phải chấp nhận chân lý hay là cưỡng bách họ phải chối bỏ niềm thâm tín của mình là một điều xúc phạm nặng nề tới phẩm giá con người. Đó là lập luận theo ngôn ngữ của pháp lý mà mọi ngươi có thể hiểu được; sau đó sang chương Hai, công đồng mới dùng lập luận của Kinh thánh để nói chuyện với các tín hữu, khi nêu gương của đức Kitô và của các thánh tông đồ trong việc tôn trọng lương tâm con người.
Sau công đồng Vaticano II, sự can thiệp của Giáo hội vào các vấn đề nhân quyền càng ngày càng gia tăng. Chỉ cần trưng dẫn vài thí dụ thì đủ hiểu. Thượng hội đồng Giám mục thế giới họp năm 1971 ghi vấn đề Công lý trên thế giới vào chương trình nghị sự, đưa tới việc thiết lâp Hội đồng Tòa thánh về Công Lý Hòa bình. Cơ quan này đã xuất bản nhiều văn kiện liên quan tới nhân quyền (thí dụ : Giáo hội và nhân quyền vào năm 1975 nhân dịp kỷ niệm 25 năm tuyên ngôn nhân quyền của LHQ, Vấn đề nợ quốc tế 1986, Giáo hội và vấn đề gia cư, 1987), đặc biệt là hợp tác với Ủy ban thần học quốc tế để soạn văn kiện Phẩm giá và những quyền lợi của nhân vị vào năm 1984. Riêng về đức Gioan Phaolô II, vấn đề nhân quyền được nhấn mạnh nhiều lần, đặc biệt là những bài diễn văn đọc tại LHQ vào năm 1979 và 1995; những thông điệp xã hội : Laborem exercens (s.16) Sollicitudo rei socialis (s.26), Centesimus annus (s.22;47). Đức đương kim giáo hoàng đã nhấn mạnh đến tất cả 4 thế hệ quyền lợi : các quyền tự do cá nhân, những quyền xã hội (thí dụ quyền làm việc), quyền của các dân tộc trên đường phát triển, bổn phận bảo vệ môi sinh, v.v... Sự đóng góp đặc biệt của Giáo hội vào vấn đề nhân quyền ở chỗ cung cấp đạo lý về nền tảng nhân quyền cũng như về những điều kiện luân lý cần thiết để thi hành nhân quyền. Thực vậy, nếu thiếu sự kính trọng nhân phẩm, nếu thiếu tình liên đới bác ái, nếu thiếu ý thức về công ích, thì khó mà nói tới việc tôn trọng quyền lợi của tha nhân! Kinh nghiệm cho ta thấy rằng mỗi người chúng ta hăng hái tranh đấu cho quyền lợi bản thân nhưng tỏ ra lạnh lùng khi đụng tới bổn phận phải tôn trọng quyền lợi của người khác.
Những điểm căn bản của học thuyết Giáo hội về nhân quyền được tóm lại trong Sách Giáo lý Hội thánh công giáo số 1929-1933, khi bàn về bổn phận con người sống trong xã hội: tôn trọng phẩm giá nhân vị, liên đới với tha nhân. Đó mới chỉ là những nguyên tắc hướng dẩn. Sách Giáo lý giải thích chi tiết ở những chỗ khác, thí dụ: phẩm giá con người (s.1700), mạng sống con người (s. 2258tt), thân thể con người (s. 2297; 2414), tài sản con người (s. 2407tt), những quyền lợi xã hội (s. 2419-2449), v.v...
Dĩ nhiên, ngoài việc giáo dục về ý thức nhân quyền, Giáo hội còn phải nêu gương trong thực hành, khởi đầu ngay từ trong đời sống nội bộ của mình. Bộ giáo luật 1983 đã được duyệt lại trong chiều hướng đó. Đừng kể những quyền lợi gắn liền với bản tính con người, người tín hữu còn có những quyền lợi phát sinh từ bí tích rửa tội nữa. Tất cả mọi tín hữu đều bình đẳng với nhau về phẩm tính, trước khi có những khác biệt về chức vụ, như ta có thể đọc thấy ở đ. 208, mở đầu cho thiên nói về các nghĩa vụ và quyền lợi nền tảng của các tín hữu. Ngoài ra Giáo hội dấn thân vào việc bảo vệ nhân quyền qua bao nhiêu phần tử của mình đang phục vụ những thành phần thấp cổ bé miệng, những thành phần đã bị xã hội gạt ra ngoài lề. Và cũng đã có không biết bao nhiêu người đã trả giá cao cho sự phục vụ đó, bằng chính mạng sống của mình !