Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2013

CỨU ĐỘ, CỨU RỖI, CỨU THẾ, CỨU CHUỘC …

(Thời sự Thần học - Số 30 - Tháng 12/2003, tr. 7-14)

Thành Phương

Các mục đồng thờ lạy (1662) của Van-Hornthorst 
CỨU ĐỘ, CỨU RỖI, CỨU THẾ, CỨU CHUỘC … là những từ ngữ chỉ về một thực tại: ơn cứu độ. Theo Kinh thánh Tân ước, đó là: “mầu nhiệm vương quốc Thiên Chúa” (Mc 4,11), “bí mật của vương quốc” (Rm 11,25, 1Cr15,51), “mầu nhiệm giấu ẩn” (Rm 16,25), “mầu nhiệm không một ai trong các thủ lãnh thế gian này được biết” (1Cr 2,8), “mầu nhiệm của Tin mừng” (Ep 6,19-20).Như thế, có thể nói, Cứu độ là một mầu nhiệm, là Kế hoạch của Thiên Chúa để công chính hóa con người và con người “được nên công chính nhờ đức tin” (Rm 5,1). “Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian đến hồi viên mãn, là qui tụ muôn loài trong trời đất, dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1,9-10). Như thế, ngày cánh chung, ngày “Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự”

Tuy có cùng một quan điểm, nhưng mỗi từ ngữ nhằm nhấn mạnh đến một khía cạnh khác nhau:

· Cứu độ (secourir): là độ qua sông, đưa từ bờ bến bên này qua bờ bến bên kia, từ bóng tối vào ánh sáng, từ tội lỗi đến công chính. Từ ngữ này nhấn mạnh đến một quá trình và quá trình được thực hiện nơi Đức Giêsu, Đấng Cứu độ duy nhất.

· Cứu rỗi (accorder la grâce): “Cứu linh hồn khỏi đày xuống địa ngục” (Thanh Nghị, Việt Nam Tân Tự Điển) “cứu vớt linh hồn, theo một số tôn giáo” (Trung tâm ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Đại Tự Điển tiếng Việt, Hà nội 1999). Từ ngữ này có lẽ muốn nhấn mạnh đến tình trạng một linh hồn được cứu thoát.

· Cứu Thế (sauver le monde): “cứu đời, cứu người đời thoát khỏi cảnh khổ đau, theo một số tôn giáo” (Trung tâm ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Đại Tự Điển tiếng Việt, Hà nội 1999).Từ ngữ này xem ra nhấn mạnh đến khía cạnh tự nhiên hơn là siêu nhiên. Người ta vẫn nói: Cứu nhân độ thế.

I. CỨU ĐỘ HAY CỨU CHUỘC

Bài này xin trình bày quan điểm cứu chuộc cùng các hệ luận tiêu cực phát xuất từ quan điểm “chuộc” (racheter, expier, retribuer). Cứu chuộc là chuộc lại những tội lỗi nhờ một công cuộc giá trị. Đức Giêsu cứu chuộc trần gian bằng giá máu của Người.

Trước hết, cần xác tín công trình cứu chuộc là một mầu nhiệm chính Đức Giêsu thục hiện, Mầu nhiệm tập trung nơi Đức Kitô. Trong thư Cô-lô-xê, thánh Phaolô viết: Tôi phải rao giảng Lời của Người cho trọn vẹn, rao giảng Mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho Dân Thánh của Thiên Chúa. Người đã muốn cho họ được biết Mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: Đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1,25-27). “Tôi muốn anh em biết tôi phải chiến đấu gay go thế nào… để họ được phấn khởi trong tâm hồn, và nhờ được liên kết chặt chẽ với nhau trong tình thương, họ đạt tới sự thông hiểu phong phú và đầy đủ, khiến họ nhận biết mầu nhiệm của Thiên Chúa, tức là Đức Kitô, trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết” (Cl 2,1-3). Như thế, Đức Kitô chiếm địa vị quan trọng trong đời sống đức tin của chúng ta, vì chúng ta tuyên xưng Người là Đấng Cứu Thế. 

Thứ đến, theo Thần học cổ truyền, tội lỗi là xúc phạm đến Thiên Chúa, đáng lên án phải chết đời đời và Đức Kitô con Thiên Chúa đã chết để đền tội thay cho chúng ta. Chỉ mình Người mới có thể dâng hy lễ chuộc tội (cứu chuộc) cách cân xứng với sự xúc phạm này. Thực vậy, khi xúc phạm đến Đấng Vô Cùng, chúng ta hữu hạn không thể bù đắp cân xứng được. Do đó, cần phải có một Đấng Vô Cùng mới trả nợ cân xứng. Hơn nữa, cuộc khổ nạn đổ máu của Người trên thập giá mới “chuộc lại” cân xứng. 

Lối lập luận như thế, sẽ gặp nhiều vấn nạn: 

a. Thiên Chúa được trình bày như một vị quan toà nghiêm thẳng, chỉ nghĩ đến công lý và báo oán. Người đòi phải đền bù cân xứng để chuộc lại sự xúc phạm. Điều này hẳn là xa lạ với mạc khải về Thiên Chúa như người cha nhân hậu trong Tin mừng.

b. Đức Giêsu bị hạ giá. Chỉ có cái chết của Người trên Thập giá mới có giá trị còn cuộc đời rao giảng trước đó xem ra vô nghĩa. “Máu chiên bò Chúa không ưng…” được thay thế bằng máu của Chúa Giêsu, xem ra không lưu tâm đến tình yêu và sự vâng phục vốn là hai yếu tố chính trong công trình cứu độ.

c. Khái niệm ơn cứu độ sẽ gặp phải khó khăn là chỉ giới hạn vào việc chuộc tội. Quan niệm như thế có ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại, đến công cuộc thăng tiến nhân loại.

II. GIẢI THÍCH THẦN HỌC CỨU CHUỘC VÀ NHỮNG HỆ LUẬN

Quan niệm về sự cứu chuộc như là đền bù cho sự công thẳng của Thiên Chúa chỉ xuất hiện với thần học của thánh An-xen-mô, vào lúc khai sinh kinh viện, lúc bắt đầu áp dụng ý niệm pháp đình vào việc phân tích bản văn Kinh thánh, vốn đặt nặng vấn đề công lý, thưởng phạt. Từ đó về sau, thần học cứ lặp đi lặp lại tư tưởng ấy, mà không chịu đào sâu thêm các từ khác dùng trong Kinh thánh, cũng như không xét xem Kinh thánh dùng các tiếng “hy sinh, chuộc tội” theo nghĩa pháp đình hoặc theo nghĩa khác nữa?

Cần lưu ý là: Kinh thánh cho ta thấy rằng Đức Kitô đến trần thế này không phải chỉ để đền tội thay cho chúng ta, để lãnh án phạt tử hình mà chúng ta đáng chịu. Đức Kitô chính là mạc khải của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người: Người đến để thông chia cho chúng ta tình yêu dồi dào của Ba Ngôi Thiên Chúa, đem tình yêu của Thiên Chúa chiếu rọi vào trong cảnh sống lầm than của con người.

Như thế, Đức Kitô là Đấng Cứu Thế bằng tất cả cuộc đời của Người, chứ không phải chỉ có lúc chết trên Thập giá. Thực vậy, Người chính là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa trao ban cho con người qua hết mọi lời nói và hành động của Người: Người làm bạn với người tội lỗi, tiếp xúc với người bị xã hội ruồng bỏ; Người chữa lành các người bệnh tật và quỷ ám. Suốt cuộc đời của Người là sự trao ban tình yêu: Người là “một người sống cho người khác”.

Chỉ trong bối cảnh như thế mà cái chết của Đức Giêsu có ý nghĩa. Giá trị cái chết của Người không phải ở chỗ bị giết, bị ám sát, nhưng là ở chỗ biểu lộ tới tột điểm lý tưởng mà Người đã thực hiện suốt cuộc đời, tức là trao ban mình cho người khác, một cách tình nguyện và tự do. Cái chết của Người không phải nhằm để thỏa mãn sự công thẳng của Thiên Chúa cho bằng để bộc lộ tình yêu trao ban của Thiên Chúa dành cho loài người.

Bởi vậy, chúng ta không thể chỉ giới hạn vào quan điểm công lý pháp đình để tìm hiểu sứ mạng của Đức Kitô, nhưng cần phải khởi đi từ động lực tình yêu, liên đới. Người chia sẻ thân phận cùng cực của chúng ta, đồng thời nâng cao kiếp sống chúng ta từ hàng nô lệ lên hàng con cái Thiên Chúa. Người khơi dậy cho chúng ta một sức lực mới, có khả năng để đổi mới cuộc đời.

Dù sao đi nữa, Kinh thánh mô tả tương quan giữa Thiên Chúa với nhân loại không phải dưới viễn ảnh của luật pháp hay tương quan giữa vua chúa với thần dân. Mối tương quan của Thiên Chúa được biểu lộ qua tiếng “giao ước”, hay nói đúng hơn nữa, qua từ ngữ của “tình yêu”.

Tội lỗi của con người không xúc phạm đến sự công thẳng cho bằng đến tình yêu của Người, tình yêu bị hất hủi, phản bội. Thế nhưng, thay vì đòi hỏi con người phải đi bước trước để xin tạ lỗi, thì Tân ước cho ta biết rằng Thiên Chúa, như người mục tử nhân lành hoặc như người cha trong dụ ngôn người con hoang đàng, đã lên đường để đi tìm người tội lỗi.

Cái chết của Đức Kitô cần được nhìn trong nhãn giới: đó chính là biểu hiện của một mối tình bị hất hủi do tội lỗi của con người, và đồng thời là sự bày tỏ tình yêu liên đới qua việc tha thứ và chuyển cầu, chứ không phải xin báo oán.

Thiên Chúa không ưa thích cái chết của Đức Kitô như sự đền bù danh dự bị xúc phạm! Thiết tưởng đừng nên nói rằng “Chúa nguôi giận vì hy lễ đền tội của Đức Kitô”, vì nói như thế là “coi thường” Thiên Chúa: Người khắc nghiệt thích trừng phạt (Theo thần thoại, của lễ làm các thần nguôi giận và không trừng phạt nữa), nhưng nên nói rằng: “trước mặt Thiên Chúa, cái chết của Đức Kitô có giá trị, bởi vì Người đã muốn chấp nhận cái chết như dấu chỉ liên đới với số phận của nhân loại, và để tỏ ra rằng: Thiên Chúa yêu thương nhân loại cũng như là yêu thương chính Con Một của mình vậy.

Khi bàn về giá trị cái chết của Đức Giêsu, một từ ngữ thường được sử dụng là hy lễ (lễ hy sinh: sacrificium). Tuy nhiên chúng ta nên cẩn thận để tránh ngộ nhận. Thường thì người ta quan niệm giá trị của hy lễ ở chỗ sát tế lễ vật: vật bị giết biểu lộ tâm tình đau khổ tan nát của chúng ta trước mặt Thiên Chúa vì đã xúc phạm Ngài. Quan niệm như vậy, ngoài giả thuyết một hình ảnh của Thiên Chúa nghiêm thẳng, lại còn làm lệch lạc ý nghĩa của hy lễ. Cần phải nhìn hy lễ dưới viễn ảnh khác, trong tương giao tình yêu. Để tỏ lòng yêu ai, thì chúng ta thường biếu quà cáp; món quà trọng nhất là biếu chính bản thân cho người yêu. Sự sát tế lễ vật nhằm biểu lộ ý muốn dâng hiến trọn vẹn, vô điều kiện, không bao giờ lấy lại nữa. Dù sao, trong Tân ước, hy lễ đẹp lòng Chúa không hệ tại việc sát tế chiên bò lễ vật: Chúa không ưa những quà cáp bên ngoài, nhưng là ước mong con người dâng chính bản thân qua việc chấp nhận vâng nghe lời Người.

Vai trò của Đức Kitô không chấm dứt với cái chết. Qua sự sống lại, lên trời, ban Thánh Thần, Người còn tiếp tục sứ mạng Cứu Thế qua việc chuyển cầu cho chúng ta. Không những Người là một gương mẫu cho chúng ta bắt chước, nhưng nhờ sự phục sinh (chiến thắng tội lỗi, sự ác, sự chết) Người còn trở nên nguyên nhân cứu thoát cho chúng ta, cứu chúng ta khỏi lo âu, sợ hãi, khỏi tính ích kỷ; trả lại cho chúng ta sức mạnh và tự do, ngõ hầu ta có thể mạnh dạn ra đi lên đường phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.

Đi xa hơn một chút, khi nói đến “cứu thoát”, “cứu tinh”, chúng ta đương nhiên nghĩ đến hai tình trạng. Một là tình trạng hiện tại, cảnh tượng bị khốn khổ, tù đầy, nô lệ, và vì vậy cần được giải thoát; hai, là tình trạng tương lai, sau khi đã được giải thoát rồi. Thường thì tình trạng đầu trong thần học được diễn tả như là: tội lỗi, nô lệ của ma quỷ; còn tình trạng thứ hai thì được diễn tả như là sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa. 

Tuy nhiên, thần học giải phóng cho rằng quan niệm cứu độ như vậy đâu có nhằm đến toàn thể con người, bởi vì con người đâu phải chỉ có linh hồn cần phải lo cho được rỗi ở đời sau; con người còn có thân xác và sống ở đời này nữa chứ. Như thế, một câu hỏi: ơn cứu độ của Đức Kitô có ảnh hưởng đến thân phận con người ở đời này, đến lịch sử hiện đại, đến các thể chế luân lý, pháp lý, chính trị, xã hội hay không?

Câu trả lời tất nhiên là có. Chúng ta cần lưu ý là: con người càng ngày càng ý thức về ơn cứu độ không phải hệ tại cần được giải phóng khỏi cảnh nghèo đói, bệnh tật, dốt nát, bất công; nhưng chính là khôi phục lại cho con người tự do, phẩm giá của mình đã bị chà đạp do những cảnh bất công vừa kể.

Khi đi vào tận gốc rễ của vấn đề như vậy, ta có thể vượt qua vấn nạn nói trên đây về sự cứu độ linh hồn hay cứu thể xác, cứu đời này hay cứu đời sau. Thực vậy, khi nhấn mạnh ơn cứu độ là khôi phục lại tự do phẩm giá cho con người, chúng ta sẽ thấy tất cả những hệ luận phong phú của nó, xét vì không những mở cửa cho con người hiệp thông với Thiên Chúa, nhưng còn thúc đẩy con người hành động cách tự do để thăng tiến phẩm giá cho mình và cho đồng loại.

Một khi đã ý thức về ơn gọi cao quý của con người: là dưỡng tử của Thiên Chúa, thì người tín hữu, theo gương Đức Giêsu, sẽ ra tay đương đầu với những lực lượng nào đè bẹp ơn gọi ấy; và theo gương Đức Giêsu, họ không ngại hiến mình cho tha nhân; họ thâm tín rằng cuộc sống của họ không bị tắt nghẽn với cái chết, nhưng nhờ sự Phục sinh của Đức Kitô, họ được cứu thoát khỏi cái chết, để chia sẻ sự sống với Đức Chúa Ba Ngôi.

Để kết luận, chúng ta đã chú trọng đến ơn cứu chuộc xét theo phương diện Kitô học và một số vấn đề thần học được nêu lên chung quanh đề tài cứu độ của Đức Kitô, còn những hậu quả của ơn cứu chuộc sẽ dành cho Giáo hội học, Bí tích học và Thần học về Ơn Thánh. Có thể nói, ý nghĩa của công trình cứu chuộc đức Kitô thực hiện chính là mạc khải tình yêu Thiên Chúa (chứ không phải chỉ nhằm thỏa mãn sự công thẳng của Người). Nhờ công trình đó, Người mang đến cho con người một cuộc sống ý nghĩa với tình liên đới, tự do, phục vu, vốn là chiều kích nhân sinh của ơn cứu độ. 

–––––––––

THƯ MỤC 

1. B. SESBOUE, Jésus Christ, I’unique Médiateur. Essai sur la rédemption et salut. I: Problématique et relecture, Paris 1988.
2. OLEGARIO GONZALEZ DE CARDENAL, La soterio-logia contemporanea, “Salmanticensis” 36 (1989), 267-317.